Tác giả: admin

  • Được đền bù đất 1 tỷ 8, tôi ôm 1 tỷ 750 ngồi xe 5 tiếng lên thành phố định cho con mua nhà, lên đến nơi các con nhiệt tình hỏi han nhưng

    Được đền bù đất 1 tỷ 8, tôi ôm 1 tỷ 750 ngồi xe 5 tiếng lên thành phố định cho con mua nhà, lên đến nơi các con nhiệt tình hỏi han nhưng

    Bất cứ người làm cha mẹ nào cũng muốn dành những điều tốt đẹp nhất cho con của mình.

    Ông Sáu, năm nay 60 tuổi, cùng vợ là bà Thắm sống ở một vùng quê nghèo thuộc tỉnh Nam Định, quanh năm gắn bó với đồng ruộng. Con trai duy nhất của họ, Tuấn, đã tốt nghiệp đại học ở Hà Nội và ở lại thành phố lập nghiệp. Anh kết hôn với Hương, một đồng nghiệp cùng công ty.

    Vợ chồng ông Sáu luôn đau đáu hướng về đứa con trai độc nhất. Ông bà chỉ mong Tuấn sớm quay về quê hương, ở gần cha mẹ khi tuổi già ập đến. Nhưng thực tế cuộc sống nơi phố thị cuốn hút Tuấn lại quá mạnh mẽ. Vợ chồng ông Sáu dần chấp nhận việc con trai sẽ an cư lạc nghiệp ở chốn phồn hoa.

    Năm Tuấn kết hôn, vợ chồng ông Sáu hiểu rằng các con rất muốn có một căn nhà riêng ở thành phố. Đây là ước muốn chính đáng, nhưng lại là gánh nặng khổng lồ đối với hai ông bà. Bao năm nay, vợ chồng ông Sáu sống vô cùng tằn tiện, chắt chiu từng đồng từ hạt lúa, củ khoai, nhưng kinh tế gia đình vẫn eo hẹp. Tất cả tiền bạc đều đã dồn vào việc học hành cho con trai. Làm nông không dư dả, ông bà chẳng có đủ tiền để giúp con mua nhà.

    Cũng vì chuyện này, tình cảm của con dâu, Hương, đối với bố mẹ chồng dần trở nên lạnh nhạt. Cô thường xuyên bóng gió nhắc đi nhắc lại về việc thiếu một chỗ ở ổn định.

    Vợ chồng ông Sáu luôn tự trách mình kém cỏi, không kiếm được nhiều tiền để con dâu phải coi thường. Mãi đến khi cháu nội đầu lòng ra đời, quan hệ gia đình mới dịu đi một chút.

    Một hôm, Tuấn gọi điện về, giọng vừa mừng rỡ vừa lo lắng, báo tin vợ đang mang thai lần thứ hai. Đồng thời, Tuấn cũng bày tỏ ý muốn mua một chiếc ô tô cũ để tiện đi lại, đặc biệt là khi đưa cả gia đình về quê thăm ông bà sẽ dễ dàng hơn.

    Câu nói của con trai chạm đến trái tim người cha. Ông Sáu nghĩ, làm cha làm mẹ, dù khó khăn đến mấy cũng phải hỗ trợ con một chút. Vừa may, gia đình ông có một mảnh đất nhỏ nằm trong diện quy hoạch và vừa được đền bù. Ông bà Sáu quyết định rút 200 triệu đồng (tương đương 6 vạn NDT trong câu chuyện gốc) từ khoản tiền đền bù đó để đưa cho con. Nhờ số tiền này, Tuấn và Hương đã mua được một chiếc xe trị giá khoảng 341 triệu đồng.

    Từ khi có chiếc xe, thái độ của Hương thay đổi rõ rệt. Mỗi lần ông bà Sáu lên thăm, con dâu trở nên ân cần, chu đáo hơn hẳn. Chính sự thay đổi này càng khiến ông bà quyết tâm phải giúp đỡ con trai nhiều hơn.

    Nghĩ đến cảnh con trai mình giờ đây sắp có hai đứa con mà vẫn chưa có chỗ ở ổn định, ông bà Sáu bàn bạc với nhau về số tiền đền bù đất còn lại. Tổng cộng, ông bà nhận được khoảng 2 tỷ đồng. Sau khi trích 200 triệu cho xe ô tô, số tiền còn lại khoảng 1,8 tỷ đồng. Với giá nhà đất đang leo thang ở thành phố, ông bà quyết định đưa hết phần tiền còn lại cho con để gom góp mua nhà.

    Đây là toàn bộ số tiền dưỡng già, là mồ hôi nước mắt cả đời của vợ chồng ông Sáu. Nhưng vì con, ông bà sẵn lòng chi ra hết. Ông Sáu tính rằng sau này hai vợ chồng sẽ đi làm thêm những việc lặt vặt đơn giản và nương tựa vào con cái.

    Thật ra, Tuấn chưa từng mở lời nhắc đến chuyện mua nhà lần nào, mà chính ông bà Sáu đã chủ động đề xuất. Tuấn dự định mua một căn hộ 102m2, tổng trị giá khoảng 3,7 tỷ đồng. Ông Sáu tin rằng số tiền 1,8 tỷ đồng này, cùng với tiền tiết kiệm của vợ chồng Tuấn, sẽ đủ để đặt cọc và trả một phần lớn tiền nhà. Vợ chồng ông cũng tính sẽ cố gắng làm lụng thêm vài năm nữa để giúp con giảm bớt áp lực nợ nần.

    Hôm đó, ông Sáu khăn gói, cầm bọc tiền buộc kỹ, mất trọn 5 tiếng đi xe khách từ quê lên Hà Nội. Khi vừa đến trước cửa căn hộ thuê của con trai, ông chưa kịp gõ cửa thì vô tình nghe thấy tiếng Hương nói vọng ra từ bên trong:

    “Anh phải nói chuyện rõ ràng với bố mẹ đi. Dù bố mẹ cho tiền mua nhà, nhưng em không đồng ý sống chung với họ đâu. Anh là con trai, lẽ dĩ nhiên bố mẹ anh phải bỏ tiền mua nhà cho anh. Căn nhà này chẳng qua là bố mẹ đang trả nợ chúng ta, trả lại những năm qua chúng ta sống khổ cực, thiếu thốn vì không có nhà mà còn bị mọi người chê cười.”

    Hương ngừng lại một lát, rồi nói tiếp với giọng đầy tự hào: “Mà nói về công lao lớn nhất thì phải nhắc đến mẹ của em. Mẹ đã lên đây chăm cháu, lo cho gia đình mình suốt thời gian qua đấy, chứ không phải ai khác!”

    Thực lòng, khi chuẩn bị số tiền này, vợ chồng ông Sáu chưa bao giờ có suy nghĩ sẽ lên ở chung với con. Họ chỉ mong các con thấu hiểu được sự cố gắng vun vén, hi sinh này mà sống hiếu thảo, biết ơn.

    Nhưng có vẻ như ông Sáu đã nghĩ quá nhiều rồi. Con dâu ông chỉ nghĩ rằng ông bà đang “trả nợ” một căn nhà, chứ không hề có ý muốn chăm sóc bố mẹ chồng. Sự thật đau lòng này khiến Ông Sáu vừa tới ngưỡng cửa đã đứng “chết sững”, như thể một luồng điện lạnh chạy dọc sống lưng.

    Quá đau đớn và thất vọng, ông Sáu lặng lẽ quay lưng, ôm chặt bọc tiền chứa cả tuổi già của mình, trở về quê ngay lập tức. Ông hiểu rằng, tuổi già của vợ chồng ông, tốt hơn hết là vẫn phải tự dựa vào chính bản thân mình. Nước mắt ông chảy ngược vào trong, thấm đẫm chiếc áo sờn vai.

    Cái túi vải cũ mà ông nội tôi để lại trước lúc mất, sau này tôi mới hiểu, nó không chỉ chứa đựng những món đồ kỷ niệm, mà còn là cả một đời hy sinh thầm lặng, không lời của cha mẹ.

  • Đi làm xa mỗi tháng gửi về cho mẹ 20 triệu nuôi vợ mới si::nh, lúc về ch::ết điếng khi thấy vợ bế con ngồi ăn mì tôm

    Đi làm xa mỗi tháng gửi về cho mẹ 20 triệu nuôi vợ mới si::nh, lúc về ch::ết điếng khi thấy vợ bế con ngồi ăn mì tôm

    Tôi tên là Tuấn, kỹ sư xây dựng. Vì muốn vợ con có cuộc sống sung túc nên khi vợ tôi bầu tháng thứ 7 tôi đã chấp nhận đi làm giám sát công trình ở tận biên giới, cách nhà hơn 400km để có thêm thu nhập lo cho con sau này.

    Lương tháng tôi được 35 triệu. Tôi giữ lại 5 triệu chi tiêu, còn lại gửi về cho mẹ. Ngày vợ sinh con tôi cũng chỉ tranh thủ về được có 2 ngày rồi lại đi luôn và nhờ mẹ chăm vợ con hộ. Tôi dặn mẹ kỹ lưỡng: “Mẹ ơi, Hiền mới sinh, sức khỏe yếu. Mỗi tháng con gửi mẹ 20 triệu để mẹ lo cơm nước, bồi dưỡng cho hai mẹ con cô ấy. Còn 10 triệu mẹ cứ giữ lấy mà tiêu hoặc tiết kiệm hộ con.”

    Mẹ tôi gật đầu lia lịa: “Mày cứ yên tâm. Con dâu là con con, cháu nội là cháu tao. Tao không chăm thì ai chăm? Cứ để đấy mẹ lo cho nó béo trắng ra.”. Tôi yên tâm lên đường. Nhưng tôi đã quá ngây thơ.

    Nửa tháng đầu tiên, mọi chuyện có vẻ ổn. Nhưng sau đó tôi bắt đầu thấy lạ. Mỗi lần tôi gọi video về buổi tối để nhìn mặt con, Hiền đều không nghe máy. Cô ấy tắt đi và chỉ nhắn lại những dòng tin ngắn ngủi, lạnh lùng: “Con ngủ rồi, nghe máy con thức.”…”Em mệt, em ngủ trước đây.”…”Mạng lag lắm anh ạ.”…

    Tôi gọi cho mẹ, bà Thoa than thở: “Ôi dào, vợ mày nó sướng quá hóa rồ đấy con ạ. Cơm bưng nước rót tận miệng mà mặt lúc nào cũng sưng sỉa. Nó bảo mày đi xa, nó buồn, nó chẳng thiết nói chuyện.”

    Nghe mẹ nói, cộng với thái độ lạnh nhạt của vợ, tôi bắt đầu sinh nghi. Đàn bà xa chồng, lại mới sinh tâm lý bất ổn, hay là cô ấy có ai khác? Hay cô ấy giấu tôi làm chuyện gì mờ ám, lấy tiền của tôi đưa cho nhà ngoại?

    Cơn ghen và sự nghi ngờ như ngọn lửa âm ỉ đốt cháy tâm can tôi. Ngày thứ Sáu, tôi quyết định không báo trước, bắt xe khách chuyến đêm để về nhà “đánh úp”, xem thực hư vợ tôi đang làm cái gì.

    11 giờ trưa, tôi về đến đầu ngõ. Căn nhà 2 tầng khang trang im lìm. Tôi rón rén mở cổng bằng chìa khóa riêng. Bước vào sân, tôi nghe thấy tiếng tivi mở lớn và tiếng cười nói rôm rả trong phòng khách.
    Qua khe cửa sổ, tôi thấy mẹ tôi và cô em gái (đã lấy chồng nhưng hay về ăn chực) đang ngồi ăn cơm. Trên bàn là mâm cơm thịnh soạn: Gà luộc, canh măng, giò lụa…

    Tôi thở phào. Mẹ ăn uống thế này thì chắc vợ con tôi cũng được chăm sóc tốt. Chắc Hiền đang ngủ hoặc ăn trong phòng. Tôi định đẩy cửa bước vào tạo bất ngờ, nhưng một ý nghĩ thoáng qua khiến tôi dừng lại. Tôi muốn xem vợ tôi đang làm gì khi không có tôi.

    Tôi vòng ra phía sau nhà, nơi có gian bếp cũ và phòng ngủ nhỏ mà mẹ tôi bảo dọn cho Hiền ở cữ “cho kín gió”. Và cảnh tượng trước mắt khiến tim tôi ngừng đập.

    Cánh cửa bếp khép hờ. Trong ánh sáng lờ mờ, ẩm thấp, Hiền đang ngồi co ro trên chiếc chõng tre cũ kỹ. Cô ấy gầy rộc đi, hai má hóp lại, da xanh như tàu lá chuối. Trên tay Hiền đang bế đứa con gái đỏ hỏn của tôi, con bé đang ngằn ngặt khóc.

    Còn Hiền… cô ấy đang ăn trưa. Không có gà luộc. Không có canh măng. Trước mặt cô ấy là một bát mì tôm úp vội, nước đã nguội ngắt, sợi mì trương phềnh lên. Không có lấy một miếng thịt, không một cọng rau. Hiền vừa dỗ con, vừa và vội miếng mì. Nước mắt cô ấy rơi lã chã xuống bát mì, mặn chát.

    Vừa ăn, cô ấy vừa nấc nghẹn: “Nín đi con… mẹ xin lỗi… mẹ đói quá… mẹ ăn miếng rồi mẹ cho con ti…”. Tôi đứng chết lặng. Máu trong người tôi sôi lên sùng sục, chạy rần rật từ chân lên đỉnh đầu. “20 triệu một tháng”! Tôi gửi 20 triệu để vợ tôi ăn mì tôm trương phềnh thế này sao? Không thể kìm nén thêm một giây nào nữa.

    RẦM!!!

    Tôi tung chân đạp phăng cánh cửa gỗ mục nát. Cánh cửa đập vào tường tạo nên tiếng động kinh hoàng. Hiền giật bắn mình, bát mì trên tay rơi xuống đất vỡ tan tành. Cô ấy ôm chặt con, co rúm người lại vì sợ hãi. Khi nhìn thấy tôi, đôi mắt cô ấy mở to, hoảng loạn tột độ, rồi òa khóc nức nở: “Anh… anh về…?”

    Ở nhà trên, mẹ tôi và cô em gái nghe tiếng động lớn cũng hốt hoảng chạy xuống. Thấy tôi đứng sừng sững giữa nhà với đôi mắt đỏ ngầu, mẹ tôi lắp bắp, mặt cắt không còn giọt máu: “Ơ… thằng Tuấn… mày về bao giờ thế con? Sao không báo mẹ?”

    Tôi không trả lời mẹ. Tôi bước tới, nhìn bát mì vương vãi dưới đất, rồi nhìn người vợ tiều tụy như xác ve. Tôi quay sang nhìn mẹ tôi, giọng gầm lên như thú dữ: “20 triệu một tháng của tôi đâu? Hả???”

    Mẹ tôi run rẩy: “Thì… thì mẹ lo cơm nước… Nhưng vợ mày nó bảo nó ngán cơm, nó thích ăn mì tôm cho lạ miệng… Mẹ chiều nó…”. “Mẹ nói thế mà nghe được à!” – Tôi hét lên, chỉ tay vào mâm cơm thừa đầy ắp thịt cá ở nhà trên. – “Mẹ ăn gà, ăn giò, còn vợ con mới đẻ thì mẹ cho ăn mì tôm không người lái? Mẹ làm thế có được không? Con gái mẹ đi lấy chồng người ta cho ăn như thế mẹ có chịu được không”?

    Hiền lúc này mới dám lên tiếng, giọng yếu ớt: “Anh ơi… không phải em thích ăn mì đâu. Mẹ bảo tiền anh gửi về phải để dành xây lại cái cổng và mua xe cho cô Út. Mẹ bảo em ăn bám, đẻ con gái thì chỉ được ăn thế thôi. Mẹ cấm em nghe điện thoại của anh, mẹ bảo nếu mách lẻo mẹ sẽ đuổi hai mẹ con ra đường…”

    Tôi nghe mà tim như bị ai bóp nát. Hóa ra sự im lặng của vợ tôi là sự cam chịu của một người phụ nữ bị cô lập, bị bạo hành tinh thần ngay trong chính ngôi nhà của chồng.

    Mẹ tôi bắt đầu lu loa: “Ối giời ơi, con tôi đi làm xa về nó nghe lời vợ nó chửi mẹ! Tao nuôi mày khôn lớn để giờ mày đội vợ lên đầu à? Tiền mày tao giữ hộ chứ tao ăn hết của mày à?”

    Tôi không tranh cãi nữa. Sự hiếu thảo mù quáng của tôi đã hại chết vợ con tôi rồi. Tôi lao vào tủ quần áo, vơ vội mấy bộ đồ của Hiền và tã lót của con nhét vào ba lô. Tôi bế thốc vợ và con lên. Hiền sợ hãi:
    – “Anh ơi… đi đâu thế anh?”

    Tôi nhìn thẳng vào mặt mẹ tôi và cô em gái đang đứng trơ mắt ếch: “Mẹ, con là con trai mẹ, con có nghĩa vụ phụng dưỡng mẹ. Nhưng mẹ đã đối xử với vợ con con như kẻ thù, thì đừng trách con bất nghĩa. Từ nay, mỗi tháng con sẽ chỉ gửi đúng 3 triệu tiền ăn cho mẹ như luật định. Còn lại mọi thứ ở đây mẹ tự lo đi.”

    – “Mày… mày dám bỏ nhà đi à? Mày bước ra khỏi cửa là tao từ mặt!” – Mẹ tôi gào lên.

    Tôi quay lưng, giọng lạnh băng: “Con không cần mẹ từ mặt. Chính mẹ đã đẩy con đi.”

    Tôi bế vợ con ra thẳng ngõ, vẫy một chiếc taxi. Trên xe, Hiền vẫn khóc, nhưng lần này cô ấy dựa đầu vào vai tôi. Tôi ôm chặt hai mẹ con, nước mắt tôi cũng rơi xuống. “Anh xin lỗi. Anh sai rồi. Từ nay, anh sẽ không để ai làm khổ mẹ con em nữa. Dù có phải đi thuê nhà, ăn cháo, anh cũng sẽ tự tay chăm sóc em.”

    Sau ngày hôm đó, tôi xin chuyển công tác về gần nhà, thuê một căn nhà nhỏ. Mỗi lần nhìn vợ tôi hồng hào trở lại, con tôi bụ bẫm, tôi biết mình đã làm đúng. Cú đạp cửa ngày hôm ấy không chỉ phá vỡ cánh cửa gỗ mục, mà còn phá vỡ xiềng xích của những hủ tục và sự nhu nhược trong tôi.

  • Cô dâu ch:ửa trước mẹ chồng không cho vào cửa trước mà bắt tr:èo tường vào nhà

    Cô dâu ch:ửa trước mẹ chồng không cho vào cửa trước mà bắt tr:èo tường vào nhà

    Ngày cưới của Hạnh, cả làng ai cũng xì xào. Người thì bảo “Con bé may, bụng to mà vẫn được cưới”, người lại thì thầm “Nhà trai chỉ làm cho có lệ thôi”. Hạnh im lặng, tay khẽ đặt lên bụng mình — nơi đứa con nhỏ đang lớn lên từng ngày. Cô chỉ mong mọi chuyện qua đi êm đẹp, miễn sao đứa con có cha, có danh phận.

    Sáng hôm ấy, đoàn nhà trai rước dâu đến. Tiếng kèn, tiếng trống vang rộn rã cả ngõ.

    Hạnh nắm chặt tay bố — ông Lâm, người đàn ông đã tóc bạc nửa đầu vì thương con — rồi bước ra. Nhưng khi vừa tới cổng nhà trai, mẹ chồng tương lai – bà Hà – đứng chắn ngay trước cửa, mặt lạnh tanh.1

    “Dừng lại! Con dâu chửa trước thì không được vào cửa chính. Nhà tôi xưa nay giữ gia phong, không thể để chuyện xấu hổ này diễn ra trước bàn thờ tổ tiên. Muốn vào thì trèo qua tường bên hông kia!”
    Cả đoàn rước dâu chết lặng.

    Hạnh sững sờ, tưởng như mình nghe nhầm.

    Cô quay sang nhìn chồng – người mà cô đã tin tưởng, người từng hứa “Dù có chuyện gì, anh cũng sẽ bảo vệ em”.

    Nhưng anh cúi gằm mặt, im lặng. Không một lời phản đối. Không một bước tiến lại gần.

    Bà Hà vẫn tiếp tục nói, giọng đầy khinh miệt: “Nhà các người nghèo, lại còn để con gái mang bầu trước cưới, đúng là không biết dạy con. Chẳng trách phải cưới gấp, không thì xấu hổ với thiên hạ.”

    Ông Lâm nắm chặt tay, những đường gân trên mu bàn tay nổi lên. Ông cố kìm nén, quay sang con gái: “Thôi con, chịu nhục một chút, rồi mọi chuyện sẽ qua…”

    Nhưng khi nhìn thấy đứa con gái run rẩy, một tay ôm bụng, một tay vịn chiếc thang tre chòng chành được đặt vào bức tường cao chừng hơn 2m, đôi mắt rớm lệ mà vẫn gượng cười, trái tim người cha như vỡ vụn…

    Ông bước lên, giữ chặt tay con gái lại, giọng khàn đặc mà dõng dạc: “Con gái tôi không việc gì phải trèo tường! Nếu nhà bà không đón dâu đàng hoàng bằng cửa chính, thì coi như không có đám cưới nào hết! Nhà tôi nghèo thật, nhưng không nghèo nhân cách. Con gái tôi chẳng làm gì sai để phải bò qua tường như kẻ trộm! Trong chuyện này không phải chỉ con tôi là người có lỗi, không có con trai bà thì làm sao con gái tôi chửa trước được? Còn bà, bà có thể giữ ‘gia phong’ của nhà bà, nhưng xin lỗi — tôi giữ danh dự cho con tôi!”.

    Không khí im phăng phắc. Bà Hà đứng chết lặng, mặt đỏ bừng quát lớn: “Ối dào, bụng ễnh ra lại còn làm cao à? Mà đã chắc là con cháu nhà này chưa, cái loại con gái dễ dãi như thế thì tốt đẹp gì. Nhà tôi rước cho là may lắm rồi, giờ thích mang tiếng là chửa hoang thì cứ việc…..”..

    Chú rể chỉ cúi đầu, không dám nhìn ai.

    Ông Lâm nắm tay con gái quay người bước đi, giọng trầm mà chắc: “Thôi con, về. Nhà mình còn, cha mẹ còn — chẳng cần phải gả vào nhà không có tình người như thế.”

    Đoàn nhà gái lặng lẽ quay xe. Phía sau, những lời xì xào im bặt, chỉ còn tiếng khóc nức nở của Hạnh và tiếng bước chân kiên định của người cha dắt con rời khỏi nơi đáng lẽ phải là khởi đầu của hạnh phúc.

    Ba tháng sau, Hạnh sinh con. Bố cô ở bên chăm sóc từng miếng ăn, giấc ngủ. Ngày đầy tháng, ông bế cháu ra hiên, vuốt tóc con gái rồi nói: “Đừng sợ mất ai, con à. Người đàn ông không đủ bản lĩnh để bảo vệ vợ mình — thì dù có cưới, cũng chẳng còn là bến đỗ.”

    Bỗng đâu có tiếng xe cộ rồi tiếng người ngoài cổng, ông Lâm vội vàng ra xem là ai thì hóa ra là thông gia hụt. Bà ta mặt vẫn giữ thái độ kẻ trên, vênh lên:

    “Ông ra đây rồi thì tôi khỏi phải vào nhà, tôi nghe nói con Hạnh sinh con trai rồi, giống thằng Hoàng nhà tôi lắm. Tôi cho nhà ông cơ hội cuối, đi xét nghiệm ADN nếu đúng là cháu nhà tôi thì tôi đón về”.

    “Thôi khỏi, bà có mang cả tráp vàng đến thì nhà tôi cũng chẳng cho đón con đón cháu tôi đâu. Tôi nghe nói thằng con bà mới bị tai nạn hôm qua giờ đang thập tử nhất sinh ở viện hả? Quả báo đấy, bà về cầu trời khấn phật cho con bà giữ được mạng đi, chứ không bao giờ bà có cơ hội đón con đón cháu tôi về nữa đâu”.

    Nói rồi ông Lâm đóng chặt cửa đi vào trong nhà, ông chẳng nói gì với con gái cả, coi như không có chuyện gì xảy ra hết….

  • Đại gia của xóm thuê nguyên một kho lạnh để cất 5 tấn cá khô mua ngoài biển, ông dặn người nhà trông kỹ càng không cho ai vào suốt 3 năm trời

    Đại gia của xóm thuê nguyên một kho lạnh để cất 5 tấn cá khô mua ngoài biển, ông dặn người nhà trông kỹ càng không cho ai vào suốt 3 năm trời

    Đại gia Phan Văn Lược – giàu nhất xóm Trên – nổi tiếng là người kín tiếng và có phần lập dị. Ba năm trước, sau chuyến đi biển dài ngày, ông bất ngờ mua về trọn 5 tấn cá khô rồi thuê người xây hẳn một kho lạnh riêng, gắn ba lớp khóa, tường đổ bê tông dày. Ông dặn người nhà:

    “Ba năm! Tuyệt đối không ai được mở. Nếu tôi không cho phép, đừng động vào… kẻo mang họa.”

    Cả xóm đồn ầm lên: hoặc ông trữ hàng đầu cơ, hoặc có vàng bạc giấu trong đó. Nhưng người nhà thì chưa ai dám hé môi.

    Mãi đến tháng 9 năm nay, ông Lược phát hiện ung thư gan giai đoạn cuối. Cả họ bấn loạn, vợ con khóc ngất. Trong lúc đang chuẩn bị đưa ông đi viện tuyến trên, một người bạn lâu năm dẫn một ông thầy cúng có tiếng ở Nam Định đến, bảo rằng phải xem “điềm âm” trước.

    Vừa bước vào nhà, chưa kịp cởi áo, thầy cúng đã xanh mặt, tay run run:

    “Đại họa treo lơ lửng trên đầu nhà này rồi… Trong sân đang chôn oán khí. Mà cái oán khí ấy nằm ở nơi các người vẫn tưởng là tài sản.”

    Vợ ông Lược thảng thốt hỏi phải làm sao. Thầy chỉ tay thẳng ra cửa sau:

    “Cái kho lạnh. Mở ra ngay lập tức, nếu không… một người đi thì bốn người còn lại cũng chẳng yên thân.”

    Mọi người tái mét. Ngay cả ông Lược, đang yếu lắm, cũng mở mắt. Ông lắp bắp:

    “Không được mở… chưa đủ ba năm…”

    Nhưng thầy lắc đầu:

    “Không mở hôm nay thì không còn cơ hội nữa.”

    Gia đình thở gấp. Hai người con trai run rẩy lấy chìa khóa, bước đến trước kho lạnh. Ổ khóa đã hoen rỉ vì mấy năm không đụng đến. Vừa mở cánh cửa, một luồng khí lạnh buốt phả ra, nhưng cái mùi tỏa ra mới khiến mọi người chết đứng — không phải mùi cá, mà là mùi tanh của máu pha lẫn hôi thối như xác chết.

    Người con dọi đèn pin vào.

    Và rồi… hét thất thanh.

    Trong kho, 5 tấn cá vẫn xếp đó, nhưng ở giữa chất cá là một hàng dài hơn chục cái bao tải màu đen, được buộc dây thừng đỏ, trên mỗi bao vẽ bùa lạ ngoằn ngoèo. Một bao đã rách ở đáy, để lộ… một mảnh xương người.

    Mọi người tái mét, ngã nhào ra sau. Thầy cúng thở dài:

    “Tôi biết mà… đây không phải cá. Đây là vật trấn oán. Và ông chủ nhà… đã phạm vào điều đại kỵ.”

    Vợ ông Lược khóc thét:

    “Ông ấy trấn cái gì trong nhà tôi? Sao lại có… xương người?”

    Thầy chắp tay, giọng trầm xuống:

    “Để trừ vận hạn cho gia đình, ông ấy đã nghe lời một thầy xấu:
    Mua cá từ ngoài biển về để che mắt, rồi trong đêm đem chôn hài cốt của những người chết đường chết chợ vào giữa đống cá – gọi là ‘mượn mạng đổi vận’.
    Nhưng người chết oán quá nặng… không những không giúp được, mà còn quay lại ‘xin mạng’ của chính gia đình này.”

    Cả nhà đồng loạt quay sang nhìn ông Lược. Ông khóc, giọng đứt quãng:

    “Tôi chỉ… muốn giữ của cho con… đã cảnh báo là không được mở…”

    Thầy cúng nghiêm giọng:

    “Không mở thì ông đi trước. Nhưng mở rồi… trong ba ngày nữa, phải giải toàn bộ số xương này, nếu không oán hồn không rời khỏi được, sẽ kéo theo cả nhà xuống theo.”

    Cả xóm nghe tin kéo đến xem, ai cũng sợ xanh mặt.

    Nhưng twist lớn nhất nằm ở chỗ…
    Khi thầy và người nhà chuyển từng bao xương ra, đến cái bao cuối cùng, một người thợ lỡ tay làm rơi. Từ bên trong rơi ra một chiếc vòng bạc, khắc tên một đứa bé… chính là tên con trai út của ông Lược, mất tích cách đây 11 năm khi gia đình lên thành phố, chưa từng tìm được thi thể.

    Vợ ông Lược khuỵu xuống, úp mặt khóc nghẹn:

    “Ông… đã giấu tôi những gì…?”

    Ông Lược run bần bật, môi mấp máy:

    “Tôi… tôi chỉ muốn… giữ nó lại bên mình…”

    Và ngay khi câu nói vừa dứt, cả kho lạnh chợt tắt điện, một cái bóng nhỏ xíu lướt vụt qua cửa, và tiếng trẻ con vọng lên:

    “Bố… đem con đi đâu vậy…?”

  • Đi ăn đám cưới bạn, cả nhóm thống nhất mừng cưới theo mức chung là 500.000/ người nhưng sau khi nhìn thấy mâm cỗ nhà gái chuẩn bị vài người vội đổi phong bì

    Hôm đó, nhóm 6 người chúng tôi đi ăn cưới con bạn học cũ — con Thảo, đứa từng nghèo nhất lớp.
    Từ hồi học xong, nó ít liên lạc, ai cũng tưởng đời nó lận đận, nên khi nghe tin cưới, cả nhóm bàn nhau:

    “Mừng cho nó 500k/người là hợp lý, vừa có tâm vừa không phô trương.”

    Thế mà vừa đến nơi, nhìn mâm cỗ nhà gái, đứa nào cũng trố mắt.
    Chỉ có vài món đơn giản: gà luộc, đậu sốt, dưa góp, canh mướp, tráng miệng thì… đúng 1 quả chuối.

    Thằng Tuấn bĩu môi:

    “Trời ơi, cưới gì mà như giỗ thế này, 500k phí quá!”

    Cả nhóm ngồi xì xầm, cuối cùng mấy đứa rủ nhau ra xe “đổi phong bì” — lén rút bớt tiền còn 300k, bảo nhau:

    “Chắc nó chẳng kiểm phong bì đâu, miễn có mặt là quý rồi.”

    Cả buổi tiệc, Thảo vẫn tươi cười, đi từng bàn rót rượu, cảm ơn rối rít.
    Ai ngờ…

    tối hôm đó, cả nhóm đều nhận được tin nhắn chung trong group Messenger cũ — do chính Thảo gửi.

    “Cảm ơn các bạn đã đến dự cưới mình. Mâm cỗ hôm nay có thể đơn sơ, vì số tiền mình dành để làm tiệc, mình dùng trả viện phí cho mẹ — bà vừa qua cơn nguy kịch sau đợt chạy thận tuần trước. Mình chỉ sợ không kịp chờ ngày cưới.


    Nhưng nhìn thấy các bạn, mình vui lắm, thật lòng cảm ơn.”

    Không ai nói thêm được lời nào.
    Thằng Tuấn lặng lẽ gỡ phong bì rỗng ra khỏi túi, còn con My — đứa hăng nhất vụ “đổi tiền” — nghẹn giọng:

    “Lẽ ra… mình nên mừng nhiều hơn mới phải.”

    Ngày hôm sau, cả nhóm nhắn lại xin lỗi Thảo, nhưng cô chỉ trả lời vỏn vẹn một câu:

    “Không sao đâu, mình vui vì các bạn vẫn đến. Tiền thì không quan trọng… tình bạn mới là thứ mình quý.”

    Từ hôm đó, không ai trong nhóm còn dám chê bai đám cưới nào nữa.
    Vì đôi khi, một mâm cỗ giản dị lại chứa cả tấm lòng và nước mắt của người ta.

  • Năm 1995, tại bang Texas (Mỹ), một gia đình người Việt gồm bảy thành viên bất ngờ biến mất khỏi ngôi nhà của họ, để lại duy nhất một mảnh giấy vỏn vẹn dòng chữ: “Đi thăm người thân vài ngày.

    Năm 1995, tại bang Texas (Mỹ), một gia đình người Việt gồm bảy thành viên bất ngờ biến mất khỏi ngôi nhà của họ, để lại duy nhất một mảnh giấy vỏn vẹn dòng chữ: “Đi thăm người thân vài ngày.

    Năm 1995, một gia đình người Việt gồm bảy thành viên sống ở ngoại ô Houston, Texas, bỗng biến mất chỉ sau một đêm. Họ để lại duy nhất một mảnh giấy viết vội:

    “Đi thăm người thân vài ngày.” Nhưng rồi không một ai quay về, cũng không ai nghe thấy tin tức gì. Căn nhà nhỏ, chiếc xe hơi cũ trong gara, và những bữa cơm dở dang trên bàn — tất cả đứng im như thể thời gian bị chặn lại. Suốt 10 năm, cộng đồng Việt kiều quanh đó không ngừng bàn tán. Cho đến một ngày, một sự tình cờ đã làm bật ra bí mật rợn người bị che giấu.

    Gia đình ông Bảy và bà Lan định cư ở Mỹ từ cuối thập niên 80. Họ có bốn người con: hai trai, hai gái, cùng bà cụ thân sinh của ông Bảy từ Việt Nam sang đoàn tụ. Ngôi nhà nhỏ ở khu ngoại ô vốn lúc nào cũng rộn ràng tiếng nói cười, mùi cơm cá kho, canh chua. Hàng xóm người Mỹ thường bảo:

    “Ngôi nhà ấy lúc nào cũng tỏa ra mùi thơm dễ chịu.”

    Ông Bảy làm công nhân hãng sửa xe, bà Lan phụ bếp cho một tiệm phở. Cuộc sống không dư dả, nhưng ổn định và đầy yêu thương. Các con đi học về thường ngồi quanh bàn ăn kể chuyện trường lớp, xen lẫn tiếng cằn nhằn của bà cụ khi thấy bọn nhỏ mải chơi hơn học.

    Mùa hè năm 1995, cả gia đình còn tham gia lễ hội Tết Trung Thu do cộng đồng người Việt tổ chức. Ai cũng thấy họ bình thường: nụ cười của bà Lan, dáng ông Bảy lúi húi phụ dựng lồng đèn, lũ trẻ chạy nhảy tung tăng. Không dấu hiệu nào báo trước biến cố.

    Rồi đến một buổi sáng, người hàng xóm tên Sarah bước sang, định nhờ ông Bảy giúp sửa cái bếp gas. Bà gõ cửa mãi không ai trả lời. Cửa không khóa, bà bước vào thì thấy căn nhà im lìm. Bàn ăn còn nguyên chén đũa, nồi cá kho chưa kịp dọn. Trên bàn gỗ nhỏ cạnh cửa có một mảnh giấy viết bằng tiếng Việt:

    “Đi thăm người thân vài ngày.” Xe hơi vẫn nằm trong gara, vali quần áo vẫn ở tủ. Cảnh sát được gọi tới, nhưng họ cho rằng đây chỉ là một chuyến đi ngắn.

    Ngày nối ngày, rồi vài tháng trôi qua. Gia đình ấy không trở lại. Bưu điện bắt đầu chất đầy thư, hóa đơn. Những lời đồn đại lan khắp cộng đồng: nào là họ trốn nợ, nào là bị bắt cóc, thậm chí có người thì thào rằng ông Bảy từng dính dáng chuyện làm ăn mờ ám. Nhưng không bằng chứng, không dấu vết. Căn nhà dần trở thành “ngôi nhà ma” trong mắt người dân quanh vùng.

    Thời gian trôi qua, căn nhà xuống cấp. Cỏ mọc cao ngập cả sân. Đôi khi có người thấy ánh đèn chập chờn bên trong, dù cửa luôn khóa. Trẻ con trong khu phố thách nhau vào sân sau, rồi hét ầm vì nghe như có tiếng bước chân trên gác.

    Năm 2005, một nhóm thanh niên gốc Việt trong cộng đồng quyết định tìm hiểu. Họ muốn chứng minh câu chuyện “ma quái” chỉ là lời đồn. Một tối mùa hè, cả nhóm mang theo đèn pin, máy quay, lẻn vào căn nhà bỏ hoang.

    Bên trong, mọi thứ phủ bụi dày, nhưng kỳ lạ là không hề có dấu hiệu bị phá phách. Trên bàn vẫn còn khung ảnh gia đình, áo khoác treo gọn gàng trong tủ. Dường như cả bảy người chỉ vừa bước ra ngoài và không bao giờ quay lại. Một trong nhóm để ý đến tờ lịch treo tường dừng lại ở tháng 6/1995 — đúng thời điểm họ biến mất.

    Khi soi kỹ dưới gầm giường, họ phát hiện một hộp gỗ nhỏ. Trong hộp có vài lá thư viết tay bằng tiếng Việt, nét chữ run rẩy. Nội dung rời rạc, nhắc đến nỗi lo sợ bị “theo dõi”, và một đoạn mơ hồ:

    “Nếu có chuyện gì xảy ra, hãy tìm dưới gốc cây sau nhà.”

    Ngày hôm sau, cả nhóm quay lại đào thử phía sau vườn. Đúng như lời nhắn, dưới lớp đất ẩm, họ tìm thấy một chiếc hộp thiếc cũ. Bên trong không phải vàng bạc, mà là một cuốn sổ tay đã úa vàng. Trang đầu tiên viết: “Chúng ta không còn an toàn. Có người biết bí mật của gia đình.”

    Tin tức lan ra nhanh chóng, khiến cộng đồng xôn xao. Người ta bắt đầu đặt câu hỏi: Gia đình ấy thực sự đã đi thăm người thân, hay đã bỏ trốn khỏi một thứ gì khủng khiếp hơn?

    Cảnh sát được mời vào cuộc lần nữa, nhưng hồ sơ cũ đã quá lâu, manh mối mờ nhạt. Cuốn sổ tay chứa nhiều đoạn viết ngắt quãng, đôi khi như mật mã, đôi khi chỉ là những dòng cầu nguyện. Có trang nhắc đến “khoản nợ máu ở quê cũ”, có trang lại ghi “kẻ bám theo bóng tối”.

    Những cụ cao niên trong cộng đồng thì thầm rằng ông Bảy từng liên quan đến chuyện vượt biên năm 1979, và có thể đã dính vào một mối thù nào đó. Người khác lại bảo, có khả năng gia đình bị lừa sang một tiểu bang khác, rồi bị giữ làm lao động chui.

    Không câu trả lời nào chắc chắn. Nhưng điều rợn người nhất xảy ra vài tháng sau khi cuốn sổ được tìm thấy. Một người trong nhóm thanh niên kia kể rằng anh liên tục nhận được cuộc gọi lạ, đầu dây chỉ có tiếng thở dài. Ban đêm, có lúc anh thấy bóng dáng một phụ nữ mặc áo bà ba trắng đứng bên cửa sổ nhà mình, rồi biến mất.

    Căn nhà nơi gia đình ấy từng sống cuối cùng bị chính quyền niêm phong, sau đó phá bỏ để xây khu thương mại. Nhưng những ai từng đi ngang vẫn nói đôi khi nghe thấy tiếng trẻ con cười vang trong gió, hoặc mùi cá kho phảng phất.

    Câu chuyện khép lại mà không có hồi kết rõ ràng. Bảy con người biến mất không dấu vết, để lại một mảnh giấy ngắn ngủi và cuốn sổ tay u ám. Mười năm sau, bí mật hé lộ chỉ càng khiến mọi thứ thêm bí ẩn. Đời thường tưởng chừng yên ả, hóa ra vẫn có những góc tối mà chẳng ai dám chạm tới tận cùng.

  • Cuộc sống làm mẹ đơn thân không dễ dàng, nhất là khi thu nhập bấp bênh, con lại hay đau ốm

    Cuộc sống làm mẹ đơn thân không dễ dàng, nhất là khi thu nhập bấp bênh, con lại hay đau ốm

    Con ố/m cần tiền, tôi tìm gặp chồng cũ, anh né/m chiếc áo rá//ch rồi đ//uổi tôi về – tôi kiểm tra thì ch//ết sững khi thấy…

    Tôi và Khánh ly hôn đã gần hai năm. Một cuộc ly hôn chóng vánh, không nước mắt, không níu kéo. Anh đi theo người mới, còn tôi ôm con về nhà mẹ đẻ, tự mình bươn chải nuôi con bằng đôi bàn tay trắng.

    Cuộc sống làm mẹ đơn thân không dễ dàng, nhất là khi thu nhập bấp bênh, con lại hay đau ốm. Những ngày trái gió trở trời, thằng bé ho đến khản cổ, sốt li bì, tôi ôm con chạy xe giữa đêm đến bệnh viện mà nước mắt cứ chảy ngược vào tim.

    Đợt này, con bị viêm phổi nặng. Bác sĩ yêu cầu nhập viện điều trị ít nhất một tuần, chi phí tạm ứng lên đến hơn mười triệu. Tôi chỉ còn vỏn vẹn hai trăm ngàn trong ví. Bán hàng online cũng chẳng ai chịu thanh toán đúng hẹn, xoay sở khắp nơi vẫn không đủ.

    Tôi cắn răng nghĩ đến Khánh – chồng cũ. Dù sao thì thằng bé cũng là con anh. Tôi không muốn nhờ, nhưng giữa lúc tuyệt vọng cùng cực, tôi chẳng còn ai để bấu víu.

    Tôi đứng trước cổng nhà anh rất lâu. Căn nhà mới của anh khang trang, sang trọng, khác hẳn cái phòng trọ bé xíu tôi và con đang thuê. Tôi gõ cửa. Người ra mở là vợ mới của anh, chị ta nhìn tôi từ đầu đến chân bằng ánh mắt lạnh lẽo, rồi quay lưng gọi:

    — Anh Khánh, có người tìm.

    Anh bước ra, khựng lại khi thấy tôi. Một cái chau mày, một nụ cười nhếch môi.

    — Có chuyện gì?

    Tôi lí nhí:

    — Con ốm nặng, đang nằm viện. Em… em không còn cách nào khác mới tìm đến anh… Anh có thể giúp em tạm ứng một ít tiền để lo cho con không?

    Khánh bật cười, lắc đầu:

    — Hai năm qua cô giành nuôi con, giờ lại tìm tôi đòi tiền? Cô nghĩ tôi là cái kho bạc à?

    Tôi cắn chặt môi, không nói gì, chỉ cúi đầu chờ đợi. Anh quay vào trong, rồi bất ngờ ném ra một chiếc áo cũ, rách vai, bạc màu. Chiếc áo năm xưa tôi từng thấy anh mặc khi đi làm thợ điện. Anh lạnh lùng:

    — Trong túi có gì thì lấy. Đó là tất cả những gì tôi còn cho cô. Còn lại thì biến đi, đừng để vợ tôi phải khó chịu vì mấy màn bi lụy này.

    Tôi ôm chiếc áo, quay lưng đi như người mất hồn. Tôi không hiểu vì sao anh lại thay đổi đến thế. Dù gì, con vẫn là máu mủ của anh cơ mà…

    Tôi ngồi ở trạm xe buýt, nước mắt lăn dài. Tay tôi vẫn siết chặt chiếc áo ấy, chẳng buồn mở ra, chẳng hy vọng gì. Nhưng rồi như có linh tính, tôi lần tay vào túi áo…

    Một phong bì dày cộp nằm gọn bên trong. Trên đó có dòng chữ nhỏ: “Cho con – Đừng nói gì thêm.”

    Tôi run run mở ra. Là tiền. Rất nhiều tiền. Hơn 20 triệu.

    Tôi chết sững.

    Đầu tôi trống rỗng, tim đập mạnh như trống dồn. Bao nhiêu cảm xúc lẫn lộn – kinh ngạc, xúc động, giận dỗi và đau đớn – trào lên như sóng vỡ bờ.

    Thì ra anh vẫn nhớ con. Vẫn quan tâm. Nhưng anh chọn cách… phũ phàng để giúp.

    Lúc ấy, tôi chỉ muốn chạy trở lại, hét lên: “Tại sao anh không nói thẳng? Tại sao phải làm tôi tủi hổ đến vậy?”

    Nhưng tôi không quay lại. Tôi biết, đó là cách anh chọn để giữ giới hạn với tôi – để bảo vệ cuộc sống mới của anh, để không khiến vợ anh hiểu lầm, và cũng có thể… là cách duy nhất anh có thể âm thầm làm tròn trách nhiệm với con, không vướng vào tình cảm đã cũ.

    Tôi lau nước mắt, trở lại bệnh viện, đóng tiền tạm ứng, ngồi bên con mà lòng trào dâng một cảm giác khó tả. Không phải vì số tiền, mà vì con tôi… vẫn còn một người cha.

    Không hoàn hảo, không dịu dàng, nhưng vẫn còn tình.

    Tôi đặt lại chiếc áo rách lên bàn, vuốt phẳng, gấp lại ngay ngắn. Bên trong, ngoài phong bì, còn một mẩu giấy nhỏ, như bị vò nát rồi lại mở ra. Trên đó viết vài dòng chữ nguệch ngoạc:

    “Tôi biết mình không tốt, cũng chẳng xứng làm cha, nhưng tôi biết con cần được sống, cần được chữa bệnh. Làm ơn đừng để con hận tôi.”

    Tôi không còn giận anh nữa.

    Chúng tôi, hai người đã từng là vợ chồng, không thể quay về. Nhưng trong tim mỗi người, vẫn có một góc dành cho con – và có lẽ, chỉ cần thế là đủ.

    Kết:
    Cuộc sống đôi khi khiến con người ta chọn cách im lặng để yêu thương. Có những người không biết cách nói lời tử tế, nhưng trái tim họ chưa từng vô cảm. Khi tình yêu không còn dành cho nhau, thì nghĩa vẫn có thể được giữ – vì một đứa trẻ vô tội đang cần cả cha lẫn mẹ.

  • Thông gia nghèo gửi 50 triệu tiền phúng điếu, cả nhà xôn xao bàng hoàng, mở ra thấy bức thư bên trong, đọc mà ch/ế/t l/ặ/n/g

    Thông gia nghèo gửi 50 triệu tiền phúng điếu, cả nhà xôn xao bàng hoàng, mở ra thấy bức thư bên trong, đọc mà ch/ế/t l/ặ/n/g

    Chiếc phong bì phúng điếu chứa số tiền lớn khiến cả gia đình chồng tôi xôn xao, bàn tán. Sau khi biết lý do, mọi người quyết định thực hiện một điều ý nghĩa bằng khoản tiền này.

    Vợ chồng tôi kết hôn được 5 năm, gia cảnh hai bên chênh lệch khá lớn. Tuy nhiên, bố mẹ chồng giàu có đối xử với tôi và gia đình rất tốt, không hề có khoảng cách hay sự phân biệt nào.

    Đặc biệt, mẹ chồng rất thân thiết với mẹ đẻ tôi. Hai bà có cùng sở thích làm việc thiện.

    Mẹ chồng tôi tâm niệm rằng, cho đi không phải để nhận lại và “con người sinh ra với hai bàn tay trắng thì khi mất đi cũng sẽ chẳng mang theo thứ gì”. Bởi thế, bà luôn cố gắng giúp đỡ người khác.

    Nhà tôi chỉ còn 3 mẹ con, bố mất sớm nên cuộc sống cũng khốn khó.

    Tôi lấy chồng trước, còn anh trai vì thương mẹ nên vẫn chưa kết hôn. Mẹ tôi lo ngại cảnh nhà như vậy khiến anh khó lấy vợ nên cố gắng dành dụm rồi vay mượn thêm để sửa lại nhà cho khang trang.

    Biết chuyện, mẹ chồng tôi lập tức gọi điện cho thông gia để được hỗ trợ. Bà ngỏ ý cho mẹ tôi vay 200 triệu đồng. Số tiền này với mẹ tôi là rất lớn, bằng thu nhập 2-3 năm nên mẹ từ chối. Nhưng mẹ chồng tôi không chịu, nói rằng giúp người ngoài nhiều rồi mà đến giờ không giúp được thông gia thì rất áy náy.

    Mẹ chồng tôi động viên mãi, mẹ tôi mới đồng ý nhưng chỉ vay 100 triệu đồng. Số còn lại, vợ chồng tôi chung tay phụ giúp.

    Khi mẹ chồng cho mẹ tôi vay 100 triệu, nghe lời mẹ, chúng tôi không tiết lộ chuyện này với các anh chị em khác trong nhà. Bởi mẹ không muốn có sự so đo, tị nạnh lẫn nhau.

    Nhưng, đau xót thay khi người tốt như mẹ chồng tôi lại phải rời xa cõi tạm sớm. Chỉ sau 2 tháng phát hiện bị ung thư, mẹ chồng qua đời với nhiều dự định còn dở dang.

    Khi biết mẹ bệnh, cả nhà tôi dồn tiền, tìm mọi cách để chữa trị, kéo dài sự sống cho mẹ. Mẹ đẻ tôi cũng vậy, cố gắng gom góp được 50 triệu để trả cho thông gia đi điều trị.

    Còn 50 triệu, mẹ sắp xếp trả nốt nhưng chưa kịp đưa thì mẹ chồng tôi đã từ giã cõi đời. W-phong bì phúng điếu.jpgThông gia nghèo gửi 50 triệu phúng điếu, cả nhà chồng xôn xao, sau đó quyết định mang khoản tiền đó đi xây nhà tình thương, giúp người nghèo khó. Ảnh minh họa
    Hôm đám tang, ngoài 1 triệu phúng viếng, mẹ tôi để thêm 50 triệu còn nợ vào phong bì, đứng thắp hương hồi lâu rồi bật khóc. Tôi biết mẹ rất đau xót trước sự ra đi của thông gia bởi hai người thân thiết như tri kỷ.

    Buổi tối, sau khi lo đám cho mẹ xong xuôi, anh em nhà chồng tôi tụ họp bóc phong bì phúng viếng để chi trả tiền tang lễ. Khi mở đến phong bì của mẹ tôi, mọi người xôn xao vì số tiền lớn bên trong.

    Anh cả kinh ngạc quay sang hỏi vợ chồng tôi: “Sao bà thông gia phúng viếng nhiều tiền thế? Liệu có nhầm lẫn gì không?”.

    Lúc đó, chồng tôi mới giải thích chuyện mẹ chồng từng cho thông gia mượn một khoản để sửa nhà.

    “Khi cho vay, mẹ nói với em là sẽ không lấy lại khoản tiền này vì muốn giúp đỡ thông gia.

    Nhưng nay mẹ ra đi, mẹ vợ em muốn làm tròn trách nhiệm và bày tỏ sự biết ơn nên phúng viếng cả số tiền nợ còn lại, chia buồn cùng gia đình mình”, chồng tôi nói.

    Các anh chị em nghe xong bảo, nếu mẹ tôi còn khó khăn, vợ chồng tôi cứ gửi lại mẹ tiền phúng điếu. Gia đình chỉ xin nhận tấm lòng.

    Tôi rất xúc động vì điều đó nhưng vợ chồng tôi có thể lo cho mẹ nên gợi ý mang số tiền này đi ủng hộ các gia đình có hoàn cảnh khó khăn, giống như điều mẹ chồng vẫn từng làm trước đây.

    Trao đổi một hồi lâu, các anh chị chồng tôi thống nhất sẽ dùng toàn bộ tiền phúng viếng mẹ chồng để giúp đỡ người nghèo khó.

    Riêng 50 triệu tiền phúng viếng của mẹ tôi, mọi người “chốt” sẽ dùng để hỗ trợ một người hàng xóm bằng việc xây nhà tình thương. Mọi người mong muốn thực hiện nguyện ước của mẹ, để tấm lòng và tiếng thơm về mẹ sẽ còn hiện hữu mãi nơi đây.

  • Chào tất cả mọi người!

    Cảm ơn vì đã sử dụng WordPress. Đây là bài viết đầu tiên của bạn. Sửa hoặc xóa nó, và bắt đầu bài viết của bạn nhé!