Blog

  • Khởi tố, bắt tạm giam Đoàn Văn Sáng về tội ‘Gi:ết người’

    Khởi tố, bắt tạm giam Đoàn Văn Sáng về tội ‘Gi:ết người’

    Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Lạng Sơn đã ra Quyết định khởi tố bị can và Lệnh bắt bị can để tạm giam đối với Đoàn Văn Sáng (sinh năm 1968, trú tại số 195 Nguyễn Phi Khanh, phường Tam Thanh, tỉnh Lạng Sơn) về tội Giết người theo khoản 1, Điều 123 Bộ luật Hình sự năm 2015.

    Ngày 3/12/2025, trang thông tin của Bộ Công An đăng bài: “Khởi tố, bắt tạm giam Đoàn Văn Sáng về tội “gi:ết người””, cho biết nội dung cụ thể như sau:

    Thông qua công tác nắm tình hình trên không gian mạng, Công an tỉnh Lạng Sơn phát hiện trên các nền tảng mạng xã hội xuất hiện hình ảnh, video mô tả vụ việc có dấu hiệu nghi vấn gi:ết người gây hoang mang dư luận.

    4579368516812193417.jpg
    Đối tượng Đoàn Văn Sáng (áo xám) tại Cơ quan Công an.

    Qua quá trình điều tra, x:ác minh, tài liệu, chứng cứ thu thập được, Công an tỉnh Lạng Sơn x:ác định nạn nhân là Nguyễn Xuân Đạt, sinh năm 1989, trú tại thôn Hậu Trung 2, xã Tiên Hưng, tỉnh Hưng Yên và đối tượng thực hiện hành vi gi:ết người là Đoàn Văn Sáng, sinh năm 1968, trú tại số 195 đường Nguyễn Phi Khanh, phường Tam Thanh, tỉnh Lạng Sơn (nguyên là Phó đội trưởng Đội Quản lý thị trường (QLTT) số 4, tỉnh Lạng Sơn).

    Khoảng năm 2020, Sáng quen Đạt qua nền tảng mạng xã hội. Vào ngày 25/01/2025, Sáng đã gọi điện thoại và thống nhất với Đạt để Đạt đến Đội QLTT số 4 – tỉnh Lạng Sơn (nơi làm việc của Sáng). Tại đây, Sáng đã thực hiện hành vi gi:ết Đạt. Sau khi gây án Sáng có nhiều hành vi tẩy, xóa dấu vết, phi tang thi thể nhằm mục đích che giấu hành vi phạm tội, đối phó với cơ quan chức năng.

    1635644772792535708.jpg
    Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Lạng Sơn đã ra Quyết định khởi tố bị can và Lệnh bắt bị can để tạm giam đối với Đoàn Văn Sáng về tội gi:ết người.

    Ngày 28/11/2025, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Lạng Sơn đã ra Quyết định khởi tố vụ án hình sự gi:ết người; ngày 29/11/2025, ra Quyết định khởi tố bị can và Lệnh bắt bị can để tạm giam đối với Đoàn Văn Sáng về tội gi:ết người theo khoản 1, Điều 123 Bộ luật Hình sự năm 2015. Cùng ngày, Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Lạng Sơn đã phê chuẩn các Quyết định trên, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Lạng Sơn đã thi hành các Quyết định và Lệnh trên theo đúng quy định của pháp luật.

    Hiện nay, Công an tỉnh Lạng Sơn tiếp tục phối hợp, chỉ đạo các đơn vị liên quan quyết liệt đấu tranh, truy xét, mở rộng điều tra, xử lý vụ án theo quy định.

    Qua vụ việc này, đề nghị cơ quan thông tấn báo chí và người dân:

    (1) Các cơ quan báo chí, truyền thông tập trung đẩy mạnh tuyên truyền, cảnh báo bằng nhiều hình thức nhằm phòng ngừa, ngăn chặn, đấu tranh phản bác các đối tượng lợi dụng hình ảnh, vụ việc Đoàn Văn Sáng đưa tin sai sự thật, kích động bạo lực, gây hoang mang dư luận, vi phạm pháp luật.

    (2) Người dân tuyệt đối không chia sẻ, bình luận, lan truyền các video, hình ảnh tiêu cực, kích động bạo lực liên quan đến vụ án trên; mọi hành vi chia sẻ, đăng tải, truyền bá trái phép các hình ảnh, video nêu trên sẽ bị xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật… Người dân cần nâng cao nhận thức khi tham gia các Hội nhóm, nhất là các hội nhóm có dấu hiệu nghi vấn vi phạm pháp luật trên không gian mạng, kịp thời trình báo cơ quan chức năng khi phát hiện vụ việc, dấu hiệu nghi vấn, các hành vi lệch chuẩn, bạo lực, vi phạm pháp luật…

    Cập nhật về vụ việc trên, báo VnExpress cũng đưa tin: “Nghi phạm gi:ết người phi tang x:ác ở Lạng Sơn bị bắt”, cho biết Đoàn Văn Sáng, cựu Đội phó quản lý thị trường số 4, bị cáo buộc sát hại người đàn ông 36 tuổi tại trụ sở đơn vị ở xã Hữu Lũng, phi tang x:ác.

    Chiều 3/12, Công an tỉnh Lạng Sơn cho biết Cơ quan Cảnh sát điều tra đã khởi tố, tạm giam Đoàn Văn Sáng, 57 tuổi, cựu Đội phó Quản lý thị trường số 4 thuộc Chi cục quản lý thị trường về tội gi:ết người theo Điều 123 Bộ luật Hình sự hôm 29/11.

    Theo điều tra ban đầu, Sáng quen anh Nguyễn Xuân Đạt, 36 tuổi, quê Hưng Yên, từ khoảng năm 2020. Hai người sau đó cùng nhau tham gia vào các hội nhóm và thường nói chuyện xoay quanh các nội dung lệch lạc, biến thái.

    Ngày 25/1 (26 Tết âm lịch), Sáng gọi anh Đạt đến nơi làm việc của ông ta tại trụ sở Đội Quản lý thị trường số 4 ở xã Hữu Lũng. Tại đây, Sáng đã thực hiện hành vi gi:ết Đạt. Sau khi gây án, Sáng có nhiều hành vi tẩy, xóa dấu vết, phi tang thi thể nhằm mục đích che giấu hành vi phạm tội, đối phó với cơ quan chức năng.

    Đoàn Văn Sáng lúc bị bắt. Ảnh: Công an Lạng Sơn
    Đoàn Văn Sáng lúc bị bắt. Ảnh: Bộ Công an

    Sau khi gây án, Sáng vẫn đi làm bình thường như không có chuyện gì xảy ra. Ông ta cũng thường xuyên cập nhật trạng thái trên Facebook cá nhân và bình luận với mọi người ở các hội nhóm. Đầu tháng 7, đoạn video về hành vi man rợ của Sáng lan truyền trên mạng xã hội nhưng nhanh chóng bị xóa.

    Khoảng giữa tháng 11, một tài liệu dài 88 trang mô tả chi tiết về diễn biến vụ việc và chỉ ra hàng loạt nghi vấn nhắm đến Sáng là nghi phạm số một. Các nội dung sau đó được lan truyền rộng rãi khiến vụ án bùng lên trở lại.

    Ngày 28/11, Phòng Cảnh sát hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn khám xét nơi ở của Sáng, thu giữ một số đồ vật liên quan. Hôm sau, cảnh sát huy động lực lượng khám nghiệm ở trụ sở cũ của Đội quản lý thị trường số 4, dùng xe hút bể phốt để tìm kiếm chứng cứ.

    Khu nhà bếp và nhà vệ sinh của trụ sở đã bị niêm phong, ngày 1/12. Ảnh: Phạm Dự
    Khu nhà bếp và nhà vệ sinh của trụ sở đã bị niêm phong, ngày 1/12. Ảnh: Phạm Dự

    Trụ sở này nằm cách chợ Mẹt trên đường Chi Lăng, thị trấn Hữu Lũng cũ, chừng 100 mét, ngay sát khu dân cư đông đúc. Xung quanh là tường bao cũ kỹ, với hàng thép gai cao chừng 2 mét và cửa sắt khóa kín. Bên trong trụ sở rộng chừng 500 m2 có 6 phòng làm việc, một nhà bếp, một kho hàng, 2 nhà vệ sinh. Do xây dựng lâu năm, trụ sở xuống cấp nhiều, cơ sở vật chất cũ kỹ.

    Ông Hiếu, hộ dân sống sát trụ sở cho biết, đội này hoạt động ở đây từ ít nhất hơn 15 năm trước. Hàng ngày có khoảng 7-10 cán bộ thường xuyên làm việc. Khoảng hơn một năm gần đây, đội chuyển dần công việc lên trụ sở mới và đến tháng 7/2025 thì chuyển đi hẳn. Tuy nhiên, hàng ngày vẫn có cán bộ quản lý thị trường ra vào trụ sở.

    Nhắc đến hôm xảy ra sự việc – ngày 25/1, ông Hiếu nói không thấy có bất kỳ động thái bất thường nào. “Đó là ngày đầu tiên của kỳ nghỉ Tết Nguyên đán, mọi hoạt động vẫn diễn ra như bình thường. Trước đó mấy ngày, trong trụ sở còn ăn tất niên, trò chuyện cười nói rôm rả”.

    Nhưng vào đầu năm mới 2025, 7 hộ dân và một dãy nhà trọ sát vách đơn vị này ngửi thấy mùi thối lạ bốc lên, ruồi nhặng cũng nhiều hơn mà không rõ nguyên nhân.

    Nước giặt quốc dân không cần nước xả vẫn thơm, hơn 1,2 triệu người dùng Shopee cho 5 sao!

  • Th/ương 2 mẹ con ướt mưa trên đường cao tốc, anh tài xế cho đi nhờ, 20 phút sau xảy ra điều ki/nh ho/àng

    Th/ương 2 mẹ con ướt mưa trên đường cao tốc, anh tài xế cho đi nhờ, 20 phút sau xảy ra điều ki/nh ho/àng

    Thương hai mẹ con ướt mưa trên đường cao tốc, anh tài xế cho đi nhờ. Hai mươi phút sau, điều kinh hoàng xảy ra… Điều kinh hoàng ấy không phải là một tai nạn giao thông thảm khốc, cũng không phải một vụ cướp bóc trắng trợn. Nó là một sự thật trần trụi, lạnh lẽo hơn bất kỳ nỗi sợ hãi nào, khiến cuộc đời anh tài xế rẽ sang một hướng hoàn toàn khác, một hướng mà anh chưa bao giờ có thể hình dung.

    Tôi là Hưng, một tài xế xe tải đường dài. Cuộc sống của tôi gắn liền với những cung đường, những chuyến hàng và những đêm dài thao thức. Vợ tôi mất sớm, để lại cho tôi một cậu con trai nhỏ, thằng cu Tùng. Cuộc sống của một ông bố đơn thân, lại thường xuyên vắng nhà, không hề dễ dàng. Tôi gửi Tùng về quê nhờ ông bà nội chăm sóc, mỗi tháng tôi lại cố gắng về thăm con một vài lần, hoặc gọi điện thoại video để nhìn mặt con. Ước mơ lớn nhất của tôi là tích cóp đủ tiền để mua một căn nhà nhỏ ở thành phố, đón Tùng lên sống cùng, để hai bố con không phải xa cách nữa.

    Hôm ấy, trời mưa tầm tã. Những hạt mưa nặng trĩu quất thẳng vào kính xe, khiến tầm nhìn bị hạn chế đáng kể. Tôi đang trên đường từ Đà Nẵng về Sài Gòn, một chuyến hàng gấp nên tôi phải chạy xuyên đêm. Cao tốc vắng hoe, chỉ thỉnh thoảng mới có vài chiếc xe lướt qua.

    Khi đi ngang qua một đoạn đường vắng, tôi chợt thấy hai bóng người nhỏ bé đang co ro bên vệ đường. Một người phụ nữ, dáng người gầy gò, đang ôm chặt một đứa bé chừng 5, 6 tuổi. Cả hai mẹ con đều ướt sũng, run rẩy trong màn mưa lạnh giá. Không có bất kỳ bóng cây hay trạm dừng chân nào ở gần đó. Họ chắc chắn đang gặp nạn.

    Lòng tôi chợt thắt lại. Hình ảnh ấy khiến tôi nhớ đến vợ và con trai mình. Nếu một ngày nào đó, vợ tôi còn sống, và hai mẹ con gặp hoàn cảnh tương tự trên đường vắng, tôi sẽ mong có ai đó giúp đỡ họ biết nhường nào. Không chút chần chừ, tôi đạp phanh, đánh lái xe vào lề đường.

    Tôi hạ cửa kính xe, gọi lớn: “Hai mẹ con có sao không? Cần giúp đỡ không?”

    Người phụ nữ ngẩng đầu lên, khuôn mặt tái nhợt vì lạnh. Đôi mắt cô ấy hiện rõ vẻ mệt mỏi và sợ hãi. Đứa bé trong vòng tay cô ấy đã ngủ thiếp đi, đôi môi tím tái.

    “Dạ, xe bọn em bị hỏng giữa đường, gọi mãi mà không có ai đến đón,” người phụ nữ nói, giọng cô ấy run rẩy vì lạnh. “Bọn em không biết phải làm sao bây giờ.”

    Tôi nhìn đồng hồ. Đã gần 10 giờ đêm. Trời vẫn mưa như trút nước. Để hai mẹ con ở lại đây trong đêm mưa lạnh lẽo này thì quá nguy hiểm.

    “Thôi được rồi,” tôi nói. “Hai mẹ con lên xe đi. Tôi đang về Sài Gòn, tôi có thể đưa hai mẹ con về đến trạm dừng chân gần nhất, hoặc nếu tiện đường thì đưa về đến Sài Gòn luôn.”

    Người phụ nữ ngần ngại một chút, rồi gật đầu lia lịa: “Dạ, cám ơn anh. Cám ơn anh nhiều lắm!”

    Cô ấy cõng đứa bé lên xe. Tôi vội vàng bật điều hòa ấm hơn một chút. Người phụ nữ ngồi ở ghế phụ, đặt đứa bé nằm gọn trong lòng. Cô ấy lấy một chiếc khăn mỏng trong túi xách ra lau mặt cho đứa bé, rồi lau vội cho mình.

    “Hai mẹ con đi đâu mà khuya vậy?” Tôi hỏi, cố gắng tạo không khí thoải mái.

    “Dạ, em đưa cháu về thăm bà ngoại ạ,” người phụ nữ đáp, giọng cô ấy đã đỡ run hơn. “Nhưng không ngờ xe lại bị hỏng.”

    Cô ấy tên là Mai, còn đứa bé là bé An. Mai kể, cô ấy làm công nhân ở một nhà máy may mặc, còn chồng cô ấy làm phụ hồ. Cuộc sống của họ rất khó khăn. Chuyến đi này là để về quê thăm mẹ già đang ốm nặng.

    Tôi lắng nghe câu chuyện của Mai, lòng tôi chợt dâng lên một sự đồng cảm sâu sắc. Cuộc đời này, ai cũng có những nỗi vất vả riêng.

    Trong xe, tiếng mưa vẫn không ngừng rơi. Bé An đã tỉnh dậy, đôi mắt to tròn, ngơ ngác nhìn xung quanh. Tôi lấy trong túi ra một hộp sữa và một ít bánh quy đưa cho bé. Bé An đón lấy, đôi mắt ánh lên vẻ mừng rỡ.

    “Cháu cảm ơn chú ạ,” bé An lí nhí nói.

    “Con ngoan quá,” tôi cười. “Ăn đi con, để có sức khỏe.”

    Tôi lái xe chậm lại, cẩn thận hơn trong màn mưa. Mấy phút sau, tôi thấy Mai dựa đầu vào thành ghế, hình như cô ấy đã ngủ thiếp đi vì mệt mỏi. Tôi cũng không muốn làm phiền cô ấy.

    Đường cao tốc vẫn dài hun hút. Gió rít qua khe cửa xe, tạo nên những âm thanh kỳ lạ. Tôi bật radio, nghe một vài bản nhạc nhẹ để xua đi sự buồn ngủ.

    Khoảng 20 phút trôi qua. Tôi đang tập trung lái xe thì bỗng nhiên, một tiếng động lạ vang lên từ phía ghế phụ. Tôi giật mình, vội vàng quay sang nhìn.

    Mai vẫn dựa đầu vào thành ghế, nhưng tư thế của cô ấy có vẻ không được tự nhiên. Tôi gọi: “Chị Mai ơi, chị Mai?”

    Không có tiếng trả lời.

    Tôi lay nhẹ vai cô ấy. Người cô ấy mềm nhũn, đổ rạp sang một bên. Tôi hoảng hốt.

    “Chị Mai! Chị Mai!” Tôi gọi lớn hơn, lay mạnh hơn.

    Vẫn không có phản ứng. Cô ấy không thở.

    Tim tôi đập thình thịch. Một cảm giác kinh hoàng ập đến. Chuyện gì đang xảy ra vậy?

    Tôi vội vàng tấp xe vào lề đường, bật đèn khẩn cấp. Tôi tháo dây an toàn, vươn người sang kiểm tra Mai. Cô ấy đã ngừng thở.

    Tôi lay người cô ấy, gọi tên cô ấy, nhưng vô vọng. Khuôn mặt cô ấy xanh xao, đôi mắt nhắm nghiền.

    “Mẹ ơi! Mẹ ơi!” Bé An chợt giật mình tỉnh giấc, thấy mẹ bất động, bé con hoảng sợ, khóc ré lên.

    Tiếng khóc của bé An xé toạc màn đêm. Tôi ôm lấy bé, cố gắng trấn an bé, nhưng tay tôi run bần bật. Tôi không thể tin được chuyện này đang xảy ra. Chỉ mới vài phút trước, cô ấy còn nói chuyện với tôi, còn mỉm cười khi tôi đưa bánh cho bé An. Bây giờ thì…

    Tôi lục tìm điện thoại của Mai trong túi xách. Tay tôi run đến nỗi không thể bấm số. Tôi cố gắng giữ bình tĩnh, tìm trong danh bạ một số liên lạc nào đó. Tôi tìm thấy số “Chồng”, “Mẹ”. Tôi vội vàng bấm số của chồng cô ấy.

    Một giọng đàn ông ngái ngủ ở đầu dây bên kia. “Ai vậy?”

    “Anh ơi, em là tài xế xe tải. Em đang đi trên cao tốc thì thấy vợ anh và cháu bé bị hỏng xe giữa đường. Em có cho họ đi nhờ… nhưng… nhưng vợ anh… cô ấy…” Tôi không biết phải nói sao cho người đàn ông đó hiểu được sự thật kinh hoàng này. “Cô ấy… cô ấy đột nhiên ngừng thở rồi.”

    Đầu dây bên kia im lặng một lúc lâu. Rồi một tiếng “rầm” vang lên, như tiếng điện thoại rơi xuống đất. “Anh nói gì vậy? Vợ tôi… cô ấy bị làm sao?”

    “Em không biết… cô ấy đột nhiên ngừng thở. Em nghĩ là cô ấy bị bệnh tim…” Tôi nói, giọng tôi cũng bắt đầu lạc đi. “Anh đến ngay đi. Em đang ở trên cao tốc, đoạn gần km…”

    Tôi cố gắng giữ bình tĩnh, cung cấp vị trí chính xác cho người đàn ông đó. Tôi nghe thấy tiếng khóc thút thít ở đầu dây bên kia, rồi tiếng người đàn ông ấy gào lên thất thanh: “Mai! Em ơi! Em ơi!”

    Tôi gác máy, ôm chặt bé An vào lòng. Bé con vẫn khóc nức nở, gọi “Mẹ ơi! Mẹ ơi!” Tôi không biết phải giải thích cho bé thế nào.

    Một cảm giác bất lực và kinh hoàng bao trùm lấy tôi. Tôi đã làm gì sai? Tôi chỉ muốn giúp đỡ hai mẹ con họ. Tại sao điều này lại xảy ra? Cuộc đời tôi sẽ ra sao sau chuyện này? Một người phụ nữ đã chết trên xe của tôi. Tôi sẽ phải đối mặt với điều gì? Những câu hỏi cứ luẩn quẩn trong đầu tôi, khiến tôi không thể nào suy nghĩ được.

    Trong màn mưa đêm lạnh lẽo, tiếng khóc nức nở của bé An và sự im lặng đáng sợ của Mai đã găm sâu vào tâm trí tôi. Tôi gọi điện cho cảnh sát giao thông và cấp cứu, cố gắng giữ bình tĩnh để trình bày sự việc. Giọng tôi vẫn còn run rẩy, dù đã cố gắng hết sức để kiểm soát cảm xúc. Tôi không dám rời mắt khỏi Mai, như thể chỉ cần một khoảnh khắc lơ là, mọi thứ sẽ biến mất, và tôi sẽ tỉnh dậy từ cơn ác mộng này.

    Chừng 30 phút sau, tiếng còi xe cấp cứu và xe cảnh sát vang vọng từ xa, xé tan màn đêm tĩnh mịch của đường cao tốc. Ánh đèn xoay tròn của xe cứu thương chiếu rọi vào chiếc xe tải của tôi, tạo nên những vệt sáng chói lóa trên nền mưa. Tôi cảm thấy một sự nhẹ nhõm nhỏ nhoi, nhưng đồng thời, một nỗi lo lắng khác lại dâng trào. Những gì sắp xảy ra sẽ thay đổi cuộc đời tôi mãi mãi.

    Các nhân viên y tế và cảnh sát nhanh chóng tiếp cận hiện trường. Họ kiểm tra tình trạng của Mai, rồi lắc đầu. Cô ấy đã qua đời. Tim tôi thắt lại một lần nữa. Dù đã biết trước, nhưng khi nghe lời xác nhận ấy, tôi vẫn không khỏi bàng hoàng.

    Cảnh sát bắt đầu lấy lời khai của tôi. Tôi kể lại toàn bộ sự việc, từ lúc nhìn thấy hai mẹ con Mai dưới mưa, đến lúc tôi cho họ đi nhờ, và rồi khoảnh khắc kinh hoàng khi Mai đột ngột qua đời trên xe tôi. Tôi cố gắng nhớ lại từng chi tiết nhỏ nhất, từng lời nói, từng cử chỉ của Mai. Tôi không giấu giếm bất cứ điều gì, vì tôi tin rằng mình không làm gì sai. Tôi chỉ muốn giúp đỡ.

    Bé An được một nữ cảnh sát bế lên xe cứu thương để kiểm tra sức khỏe. Bé con vẫn còn rất hoảng sợ, cứ gọi “Mẹ ơi! Mẹ ơi!” trong vô thức. Nhìn bé An, lòng tôi đau như cắt. Một đứa bé thơ dại, đột nhiên mất đi người mẹ thân yêu trong một hoàn cảnh nghiệt ngã như vậy.

    Sau khi lấy lời khai sơ bộ, tôi được yêu cầu về trụ sở công an để tiếp tục làm việc. Chiếc xe tải của tôi cũng bị tạm giữ để phục vụ công tác điều tra. Toàn bộ hàng hóa trên xe cũng phải dừng lại, khiến tôi lo lắng về hợp đồng và khoản phạt do chậm trễ. Nhưng lúc này, những lo lắng về tiền bạc dường như trở nên nhỏ bé trước những gì đang diễn ra.

    Tại trụ sở công an, tôi trải qua một cuộc thẩm vấn kéo dài. Các câu hỏi cứ liên tục dồn dập: “Anh và người phụ nữ này có quen biết trước không?”, “Anh có cho cô ấy ăn uống gì khác ngoài bánh và sữa không?”, “Trong quá trình di chuyển, có xảy ra xích mích hay cãi vã nào không?”, “Anh có chắc là anh không làm gì khiến cô ấy đột ngột qua đời không?”

    Tôi kiên nhẫn trả lời từng câu hỏi, lặp đi lặp lại những lời giải thích của mình. Tôi hiểu rằng cảnh sát phải làm đúng quy trình, họ cần phải loại bỏ mọi khả năng. Nhưng những ánh mắt nghi ngờ, những câu hỏi xoáy sâu vào từng chi tiết nhỏ nhất khiến tôi cảm thấy mệt mỏi và tủi thân.

    Sáng hôm sau, chồng của Mai đến. Anh ấy là một người đàn ông gầy gò, khắc khổ, khuôn mặt hốc hác vì mất ngủ và đau buồn. Anh ấy nhìn tôi với ánh mắt đầy căm phẫn.

    “Anh đã làm gì vợ tôi?” Anh ấy gầm lên, lao về phía tôi. Hai cảnh sát phải giữ anh ấy lại.

    “Anh bình tĩnh đi,” một cảnh sát nói. “Chúng tôi đang điều tra. Hiện tại chưa có kết luận gì.”

    Tôi nhìn anh ấy, ánh mắt tôi chứa đựng sự thông cảm và bất lực. “Tôi thật sự xin lỗi. Tôi chỉ muốn giúp đỡ thôi. Tôi không làm gì hại vợ anh cả.”

    Người chồng không nghe. Anh ấy vẫn gào thét, đòi tôi phải trả lại vợ anh ấy. Tôi hiểu nỗi đau của anh ấy, nhưng tôi không biết phải làm gì để chứng minh sự vô tội của mình.

    Vài ngày sau đó, kết quả khám nghiệm tử thi được công bố. Mai tử vong do nhồi máu cơ tim cấp. Đó là một cái chết đột ngột, không có tác động từ bên ngoài. Kết quả này đã giải tỏa được phần nào gánh nặng trong lòng tôi. Tôi được minh oan. Tôi được trả tự do.

    Tuy nhiên, cuộc đời tôi không thể trở lại như trước.

    Tin tức về cái chết của Mai trên xe tải của tôi lan truyền rất nhanh. Dù đã có kết luận điều tra, nhưng vẫn có rất nhiều lời đồn thổi, những ánh mắt dò xét, những lời bàn tán xì xào. Có người nói tôi cố ý gây ra chuyện, có người lại cho rằng tôi “gặp ma”, “bị vận đen”. Thậm chí, có một số công ty vận tải từ chối hợp tác với tôi, lo sợ “vận đen” sẽ ảnh hưởng đến công việc của họ.

    Cuộc sống của một tài xế đường dài không dễ dàng gì, và tôi đã mất đi rất nhiều hợp đồng. Thu nhập của tôi giảm sút nghiêm trọng. Tiền tiết kiệm để mua nhà cho Tùng cứ thế vơi đi.

    Và điều ám ảnh tôi nhất chính là hình ảnh bé An. Mỗi khi nhắm mắt lại, tôi lại thấy đôi mắt to tròn ngơ ngác của bé, tiếng bé gọi “Mẹ ơi! Mẹ ơi!” vang vọng trong tai tôi. Tôi cảm thấy mình có trách nhiệm với bé An, dù không phải lỗi của tôi.

    Một tuần sau sự việc, tôi đến thăm gia đình Mai. Họ sống trong một căn nhà cấp bốn ọp ẹp ở ngoại ô thành phố. Cảnh tượng tang thương bao trùm căn nhà. Người chồng của Mai đã kiệt sức vì đau buồn. Bé An thì cứ bám chặt lấy ông bà ngoại, không rời.

    Tôi mang theo một ít tiền, không nhiều nhặn gì, chỉ là chút lòng thành để giúp đỡ gia đình họ trong lúc khó khăn này. Tôi cũng nói với họ rằng, tôi sẽ cố gắng giúp đỡ bé An trong khả năng của mình.

    Người chồng của Mai nhìn tôi, ánh mắt anh ấy đã không còn sự căm phẫn nữa, thay vào đó là sự mệt mỏi và chấp nhận. “Cảm ơn anh,” anh ấy nói, giọng anh ấy khàn đặc. “Tôi biết anh không cố ý. Nhưng… nhưng vợ tôi mất rồi…”

    Tôi hiểu. Mất mát là không gì có thể bù đắp được. Dù tôi không có lỗi, nhưng sự việc xảy ra trên xe của tôi đã khiến cuộc đời một gia đình tan nát.

    Sau hôm đó, tôi quyết định thay đổi cuộc đời mình. Tôi không thể tiếp tục công việc tài xế đường dài được nữa. Nỗi ám ảnh, những lời đồn thổi, và sự giảm sút trong công việc khiến tôi không thể nào trụ vững.

    Tôi bán chiếc xe tải, dù giá không được như mong muốn. Tôi dùng số tiền đó để trả hết nợ nần, và số còn lại, tôi quyết định đầu tư vào một quán ăn nhỏ ở quê. Quán ăn do tôi và ông bà nội của Tùng cùng nhau quản lý. Dù thu nhập không bằng trước đây, nhưng ít nhất tôi có thời gian ở bên Tùng nhiều hơn, và tôi có thể sống một cuộc sống ổn định, tránh xa những con đường cao tốc và những rủi ro bất ngờ.

    Tôi cũng thường xuyên đến thăm bé An và gia đình Mai. Tôi không thể bù đắp được sự mất mát của họ, nhưng tôi muốn thể hiện sự quan tâm, sự chia sẻ của mình. Tôi nhận bé An làm con nuôi tinh thần, hứa sẽ giúp đỡ bé trong học tập và cuộc sống.

    Từ một tài xế đường dài, tôi trở thành chủ quán ăn. Cuộc đời tôi rẽ sang một hướng hoàn toàn khác, một hướng mà tôi chưa bao giờ có thể hình dung. Cái đêm mưa định mệnh ấy, hai mươi phút định mệnh ấy đã thay đổi tất cả. Từ một hành động thiện nguyện, tôi đã phải đối mặt với một biến cố lớn nhất cuộc đời mình. Nhưng có lẽ, chính từ biến cố đó, tôi đã tìm thấy một ý nghĩa mới cho cuộc sống, một sự bình yên giản dị bên gia đình và một trách nhiệm không lời với một đứa trẻ mồ côi.

  • Đến chiều, đội khảo cổ quyết định dùng vật trụ để thử mở khối kiến trúc dưới hố – dù rủi ro cao. Họ đặt ống trụ vào khe khớp ngay giữa nền đá, nơi có hình xoáy tròn giống hệt hoa văn trên ống.

    Đến chiều, đội khảo cổ quyết định dùng vật trụ để thử mở khối kiến trúc dưới hố – dù rủi ro cao. Họ đặt ống trụ vào khe khớp ngay giữa nền đá, nơi có hình xoáy tròn giống hệt hoa văn trên ống.

    I. Con trâu không chịu đứng dậy

    Làng tôi tên Vân Lục, một vùng quê thuần nông với những cánh đồng bát ngát trải dài đến tận chân núi. Đời sống nơi đây yên bình đến mức người ta quen với mọi điều lặp lại: mùa nào gặt nấy, trâu bò đi ăn rồi về, tiếng sáo mục đồng mỗi chiều rải xuống những thửa ruộng còn thơm mùi rạ.

    Nhưng buổi chiều hôm đó… tất cả bắt đầu thay đổi.

    Người đầu tiên phát hiện chuyện lạ là thằng Kỉnh – một đứa bé mới 12 tuổi chuyên chăn trâu cho nhà chú Hậu. Nó hớt hải chạy về đầu làng, thở hồng hộc:

    — Bác ơi! Con trâu nhà chú Hậu… nó quỳ xuống giữa đồng! Con gọi thế nào cũng không chịu đứng dậy!

    Ai cũng nghĩ nó nói xạo.

    — Trâu mệt thì nằm, chứ ai nghe trâu quỳ bao giờ?

    Nhưng nó khăng khăng:

    — Nó không nằm. Nó quỳ như người ta quỳ lạy! Hai chân trước gập hẳn xuống đất, đầu cúi thấp như đang vái cái gì!

    Cả làng chưa bao giờ thấy chuyện này.

    Mấy ông trung niên đang ngồi uống nước chè nghe vậy bèn cầm nón đi theo. Tôi cũng tò mò bước ra đồng xem thử.

    Đến nơi, phải thừa nhận: thằng bé không hề nói dối.

    Giữa cánh đồng lớn của đội ba, con trâu mộng đen bóng của chú Hậu đang quỳ hẳn xuống. Hai chân trước tựa đất, đầu cúi thấp. Nó không run, không kêu, không tỏ vẻ đau đớn. Nó chỉ… quỳ.

    — Lạ quá… — một bác thì thầm.

    Chú Hậu chạy đến, vỗ vào thân trâu:

    — Đứng lên, Bờm! Đứng lên coi!

    Nhưng con Bờm không nhúc nhích. Mắt nó nhìn chằm chằm xuống một điểm ngay trước mặt, như đang nhìn xuyên qua mặt đất.

    Mãi một lúc sau, nó khẽ dậm chân sau, lùi lại vài bước… nhưng vẫn quỳ.

    Mặt trời dần lặn. Mọi người đứng xem mà rờn rợn, không giải thích nổi. Có người mê tín thì thầm:

    — Nó thấy thứ gì đó… mình không thấy thôi.

    Đêm đó, chú Hậu đành để trâu nằm lại đồng, trói lỏng vào cọc.

    Nhưng chẳng ai ngờ…

    Sáng hôm sau cả làng sẽ phát hiện ra một thứ khiến cuộc sống đảo lộn.


    II. Hố sụt trong đêm

    Trời chưa sáng hẳn, người ta đã nghe tiếng la hét ngoài bờ ruộng.

    — HỐ SỤT! HỐ SỤT!

    Khi tôi chạy tới nơi, trước mắt là một cảnh tượng hãi hùng: ngay đúng vị trí con trâu quỳ tối qua, đất bị tụt xuống thành một hố sâu đến 5–6 mét, rộng chừng vài chục mét vuông.

    Con Bờm đứng mép hố, lông dựng đứng, thở phì phò. Nó không bị rơi xuống – như thể nó biết chính xác chỗ nào sắp sụt.

    Dưới đáy hố là những tảng đất lớn vừa vỡ ra. Nhưng thứ khiến mọi người im bặt… là vật nằm giữa đáy hố.

    Một khối tròn đen bóng, cao gần bằng người lớn, giống như một quả cầu đá. Bề mặt nó đầy các vết khắc lạ trông như ký tự cổ.

    Một ông lão run run thốt lên:

    — Trời đất ơi… đây là… vật cổ.

    Không ai dám xuống hố. Khối cầu phát sáng nhẹ, như có lớp sương lạnh quấn quanh. Lũ trẻ chỉ dám đứng từ xa nhìn.

    Trước sự việc lớn, xã lập tức báo lên huyện. Đến trưa, đoàn khảo sát địa chất và văn hóa về tới.

    Trưởng đoàn khảo cổ là một phụ nữ tên An, dáng người nhỏ nhắn nhưng ánh mắt sắc lẹm, cùng hai kỹ thuật viên và máy móc đo đạc. Vừa nhìn vật thể, chị đã cau mày:

    — Đây không phải đá tự nhiên.

    Một kỹ thuật viên soi đèn:

    — Có ký hiệu. Nhưng không giống văn tự Đông Sơn, cũng không phải văn hóa Sa Huỳnh.

    Chị An khoanh tay:

    — Đừng ai chạm vào nó. Chúng tôi phải đo đạc trước.

    Nhưng người dân tò mò thì đông hơn cả kiến, đứng chật bờ ruộng. Mấy bà cụ thì xì xào:

    — Nhìn như đá trời rơi xuống ấy nhỉ?

    — Hay là đồ của người xưa chôn?

    — Hay là linh vật gì đó? Con trâu nó quỳ chắc có điềm…

    Dân làng nhìn xuống hố mà vừa sợ vừa phấn khích. Người thì mong là cổ vật quý, người lại lo lắng chuyện tâm linh.

    Đến chiều, đoàn khảo cổ đưa ra một kết luận làm cả làng rúng động:

    — Vật thể này… không nằm trong hồ sơ của bất kỳ nền văn hóa Việt Nam nào.
    — Nó quá tròn, quá chính xác để là vật tự nhiên. Ai đó đã tạo ra nó… rất lâu trước đây.

    Cả làng xôn xao. Chú Hậu chỉ đứng một góc, nhìn con trâu Bờm như đang hỏi nó:

    — Mày… nhìn thấy cái gì mà quỳ vậy hả?

    Nhưng điều kỳ lạ nhất… vẫn chưa xuất hiện.


    III. Đêm thứ hai: Tiếng động từ lòng đất

    Tối hôm ấy, dân làng ngồi túm tụm trước cửa nhà, bàn tán không dứt về vật thể lạ. Chỉ có một điều họ không để ý:

    Con trâu Bờm… cứ đứng ở đầu làng, nhìn chằm chằm về phía cánh đồng, không chịu vào chuồng.

    Khoảng gần nửa đêm, làng chìm vào im lặng. Trăng mờ sau lớp mây. Không ai biết vì sao… chỉ những con vật phản ứng đầu tiên.

    Lũ chó tru lên từng hồi.

    Gà trong chuồng đồng loạt xòe cánh.

    Cả trâu bò đều đập chuồng bồn chồn.

    Tôi đang ngủ thì nghe tiếng đất rung nhẹ, như ai đó đập mạnh một cú dưới mặt đất. Rồi một tiếng nữa. Rồi tiếng thứ ba…

    Tôi bật dậy chạy ra hiên, nhìn về phía cánh đồng.

    Ánh sáng xanh mờ nhạt từ dưới hố sụt đang dần lan rộng, soi mờ cả góc trời.

    Tim tôi thắt lại.

    Tôi hớt hải chạy đi kêu người.

    Cả làng bật đèn, kéo nhau ra đồng. Đến nơi, ai nấy chết lặng.

    Khối cầu đen dưới hố… đang tỏa sáng mạnh hơn, các vết khắc như chuyển động chậm rãi, giống như đang “thở”.

    Ông Tư già nhất làng run lẩy bẩy:

    — Tôi… tôi từng thấy thứ này rồi… nhiều năm trước…

    Mọi người quay sang.

    Ông kể bằng giọng đứt quãng:

    — Hồi tôi còn nhỏ, ông nội tôi nói… cánh đồng này xưa vốn là đất cấm. Có thứ gì đó được trấn ở đây. Bởi vậy bao đời không ai dám đào sâu.
    — Đêm nào trâu bò quỳ là biết có chuyện lớn…

    Chị An – chuyên gia khảo cổ – lập tức yêu cầu mọi người lui lại. Chị muốn xuống đo cường độ ánh sáng thì… khối cầu rung mạnh.

    Một vệt nứt chạy dọc thân nó.

    Dân làng hét lên:

    — Nó vỡ! Nó vỡ rồi!

    Nhưng khối cầu không nổ tung. Nó chỉ tách đôi, hé giữa lòng một vật nhỏ hơn, hình trụ, giống như một ống chứa bằng kim loại cổ xưa, đen và lạnh.

    Đoàn khảo cổ kinh ngạc:

    — Đây không phải đá. Đây là hợp kim. Nhưng hợp kim kiểu gì mà tồn tại cả ngàn năm?

    Dưới ánh sáng xanh, kí hiệu khắc trên ống chứa sáng rực, lạ lùng như… ánh mắt của một sinh vật.

    Không ai dám chạm vào.

    Con trâu Bờm gầm lên vang vọng.

    Và đúng lúc ấy, cánh đồng bắt đầu lún xuống lần nữa…


    IV. Bí mật trong ống chứa

    Sự lún đất không lớn, nhưng đủ để ai cũng phải lùi lại. Hố sụt mở rộng thêm gần mét. Vật thể hình trụ nằm chênh vênh trên một mỏm đất nhỏ, dưới nó là khoảng tối sâu khiến người ta gai sống lưng.

    Chị An trấn tĩnh, hít sâu:

    — Chúng ta… phải đưa vật này lên. Nó có thể là cổ vật quan trọng nhất khu vực này.

    Chú Hậu tái mặt:

    — Mấy cô đừng động vào… Tôi thấy sợ lắm.

    Chị An mở dụng cụ, đeo găng chuyên dụng, leo xuống theo dây.

    Khi vừa chạm tay vào vật trụ, chị rùng mình:

    — Lạnh quá… lạnh như kim loại vừa lấy ra khỏi tủ đông…

    Chị cố gắng nâng vật trụ. Nó nặng hơn vẻ ngoài. Lúc chị đưa nó lên, một tiếng “cạch” vang lên như công tắc khởi động.

    Vật trụ phát sáng mạnh.

    Dân làng hoảng loạn lùi lại.

    Ánh sáng từ vật trụ chiếu thẳng lên trời, tạo thành một luồng sáng xanh như cột năng lượng.

    Gió nổi lên. Đất rung chuyển.

    Trâu Bờm gầm dài, quay đầu bỏ chạy.

    Chị An cố hét:

    — Mọi người tránh xa! Hình như nó đang… mở ra gì đó!

    Một vòng khắc trên thân ống bắt đầu xoay.

    Tôi cảm thấy sợ đến mức chân muốn khuỵu xuống.

    Rồi…

    Ngay khoảnh khắc ống trụ tách hẳn ba lớp, lộ ra lõi bên trong – thì…

    Một tiếng nổ lớn vang lên từ dưới đáy hố.

    Đất sụt mạnh. Chị An suýt rơi xuống nếu không được kéo ngược lên kịp.

    Tất cả đứng chết trân nhìn xuống.

    Dưới đáy hố vừa lộ ra một cấu trúc hình vòm, giống mái của một công trình lớn bị chôn suốt nhiều thế kỷ.

    Một kỹ thuật viên lắp bắp:

    — Trời ơi… dưới đất có cả một kiến trúc…

    Chị An nhìn kỹ vật trụ trong tay rồi thở nặng:

    — Đây… không phải đồ cổ bình thường. Đây là chìa khóa. Chìa khóa để mở cái ở dưới kia.

    Cả làng lặng thinh.

    Không ai nói được lời nào.


    V. Nền nhà cổ dưới đồng

    Sáng hôm sau, chính quyền phong tỏa toàn bộ cánh đồng. Đoàn khảo cổ xin thêm thiết bị. Tin đồn lan khắp huyện.

    Người ta dựng giàn giáo, đào từng lớp đất. Đến trưa, một cảnh tượng khiến ai cũng nổi gai ốc:

    Một nền nhà cổ bằng đá xuất hiện, với những bậc thang dẫn xuống sâu hơn – tất cả đều bị bùn đất phủ hàng nghìn năm.

    Không có dấu vết dân cư. Không có vật dụng. Chỉ có những bức phù điêu kỳ dị khắc hình trâu, mặt trời, và những biểu tượng vòng tròn xoáy như dòng nước.

    Chị An cố giải mã:

    — Rất có thể đây là khu tế lễ của một nhóm người cổ chưa được biết đến. Và vật trụ kia… có thể là vật họ dùng trong nghi lễ.

    Tôi hỏi:

    — Thế con trâu quỳ… là sao?

    Chị An nhìn xuống hố, ánh mắt xa xăm:

    — Động vật đôi khi cảm nhận được chấn động mà con người không thể. Có lẽ hoạt động dưới lòng đất bắt đầu trước khi hố sụt. Con trâu cảm nhận được… nên quỳ xuống.

    Chú Hậu đứng cạnh tôi, khẽ thì thầm:

    — Nhưng nó quỳ như lạy. Nó quỳ đúng vị trí. Như biết trước…

    Không ai giải thích được.


    VI. Đêm cuối: Cánh cửa mở

    Đến chiều, đội khảo cổ quyết định dùng vật trụ để thử mở khối kiến trúc dưới hố – dù rủi ro cao. Họ đặt ống trụ vào khe khớp ngay giữa nền đá, nơi có hình xoáy tròn giống hệt hoa văn trên ống.

    Chị An ra hiệu:

    — Chuẩn bị.

    Ống trụ khớp với khe.

    Một tiếng click vang lên.

    Rồi RẦM.

    Đất dưới chân rung lên lần nữa. Những khe sáng từ nền đá chạy dọc ra các phiến đá xung quanh.

    Chị An thở gấp:

    — Cửa… đang mở.

    Cả lòng đất phát sáng.

    Đường đá phía dưới bị đẩy xuống, lộ ra một căn phòng đá ngầm rộng lớn. Đoàn khảo cổ chĩa đèn pin xuống.

    Tôi đứng cạnh, tim đập thình thịch.

    Trong phòng có một bệ thờ đá trống không. Trên tường là hàng loạt phù điêu mô tả… những con trâu quỳ.

    Nhưng điều khiến mọi người nghẹt thở… là dòng ký hiệu lớn nhất ngay bức tường chính.

    Chị An phiên dịch từng từ, giọng run rẩy:

    — “Vật trụ… dùng để… phong ấn… thứ ngủ dưới chân núi”…
    — “Không được mở… nếu chưa đến thời”…
    — “Đất sẽ sụt, biển sẽ dâng… nếu phong ấn tan…”

    Cả đoàn im lặng lạnh sống lưng.

    Tôi hoảng hốt:

    — Nghĩa là ta vừa… mở phong ấn?

    Chị An khẽ gật.

    — Nhưng thứ ngủ dưới kia… là gì?

    Chưa ai kịp trả lời.

    Một tiếng rung chấn lớn từ dưới sâu vang lên.

    Đất nứt.

    Gió nổi lên ầm ầm.

    Lũ vật nuôi trong làng đồng loạt rống thảm thiết.

    Và đúng khoảnh khắc nền nhà đá sụp xuống, nước từ mạch ngầm phun lên trắng xóa, tôi thấy rõ:

    — Đó không phải công trình bình thường.
    — Đó là nơi giam giữ một thứ gì đó rất lớn.

    Thứ gì đó… đang thức dậy.


    VII. Trâu Bờm — kẻ giữ bí mật cuối cùng

    Ngay lúc hỗn loạn ấy, con trâu Bờm lao đến như điên, húc đổ rào chắn, lao thẳng về phía hố sụt.

    Chú Hậu hét:

    — BỜM! MÀY LÀM GÌ ĐẤY?!

    Nhưng con trâu nhảy xuống dốc đất, đứng chắn trước miệng căn phòng đá.

    Nó lại quỳ xuống. Lần này mạnh mẽ hơn, như đang dồn toàn lực ngăn thứ gì đó trồi lên.

    Nền đất rạn thêm.

    Từ dưới sâu, âm thanh trầm đục vang lên như tiếng gọi cổ xưa.

    Ống trụ xoay ngược trở lại.

    Khí lạnh thổi ngược lên.

    Căn phòng đá tiếp tục sập thêm lớp nữa.

    Chị An hét to:

    — ĐÓ LÀ PHONG ẤN NGƯỢC! PHẢI KHÉP LẠI CỬA!

    Nhưng làm sao đóng? Ống trụ tự xoay. Đất rung mạnh khiến ai cũng ngã dúi dụi.

    Chỉ có con Bờm… vẫn giữ nguyên tư thế quỳ.

    Mỗi lần âm thanh dưới đất dội lên, nó lại dồn sức ghì xuống mặt đất. Cơ thể lớn rung bần bật nhưng không hề lùi.

    Chú Hậu bật khóc:

    — Trời ơi… nó biết hết… Nó biết cái gì ở dưới kia!

    Dần dần, nền đá khép lại.

    Ống trụ tắt sáng.

    Khe đá đóng kín.

    Căn phòng đá bị chặn hoàn toàn.

    Rung chấn ngừng hẳn.

    Gió dừng.

    Tiếng gầm dưới sâu biến mất.

    Con trâu Bờm đổ gục xuống, thở dốc.

    Chú Hậu nhào tới ôm đầu nó.

    Mọi người lặng im. Dù không ai nói ra, ai cũng hiểu:
    Chính con trâu đã giữ phong ấn lại.


    VIII. Sự thật sau cùng

    Khi mọi thứ kết thúc, đoàn khảo cổ đóng ống trụ vào kho chuyên dụng, niêm phong và báo lên cấp cao. Hố sụt được lấp lại theo yêu cầu của chính quyền.

    Chị An trước khi rời làng đã nói với tôi:

    — Những phù điêu trên tường không phải hình ngẫu nhiên.
    — Người xưa đã huấn luyện trâu như loài giữ phong ấn.
    — Khi phong ấn yếu, chúng sẽ cảm nhận và… quỳ.

    Tôi rùng mình nghĩ lại tất cả.

    **Con trâu quỳ không phải bất thường.

    Nó là cảnh báo.**

    Cảnh báo chúng tôi đừng mở phong ấn.

    Nhưng chúng tôi đã mở…

    May mà nó kịp thời đóng lại.

    Chú Hậu ôm con Bờm suốt nhiều ngày. Con trâu yếu đi thấy rõ, lông bạc dần. Nhưng trong mắt nó vẫn có ánh nhìn thông tuệ kỳ lạ, như hiểu hết chuyện xảy ra.

    Một tuần sau, con trâu Bờm chết.
    Chết trong tư thế… đầu đặt xuống đất, chân trước gập chỉ như một cái quỳ cuối cùng.

    Chú Hậu khóc như mất người thân.

    Dân làng chôn nó ngay cạnh cánh đồng – chỗ nó đã cảnh báo chúng tôi.

    Khi đào hố chôn, mọi người phát hiện dưới lớp đất mềm có một mảng đá kỳ lạ có hình xoáy tròn… giống hệt đá phong ấn.

    Tôi đứng lặng rất lâu.

    Có những thứ trong lòng đất chôn vùi hàng nghìn năm… nhưng không hề biến mất.

    Và có lẽ… loài trâu đã hiểu rõ điều đó từ rất lâu. Chỉ là chúng ta không biết lắng nghe.

  • D ắ t theo con gái 4 tuổi đi dự đám cưới, tôi b ị nhà cô dâu “mời khéo” về

    D ắ t theo con gái 4 tuổi đi dự đám cưới, tôi b ị nhà cô dâu “mời khéo” về

    Hôm ấy, tôi được mời đi đám cưới con gái chị bạn thân ở quê.

    Nghĩ đơn giản là dịp gặp gỡ, tôi dắt theo bé Na – con gái 4 tuổi – cùng đi cho vui. Na thích mặc váy xòe, tôi cũng sửa soạn cho con tươm tất, mẹ con tíu tít lên xe về làng.

    Đến nơi, tiệc cưới đông vui, mâm cỗ bày đầy thịt gà, bánh chưng, rượu thơm lừng. Tôi bế Na ngồi vào bàn, định bụng vừa ăn vừa trông con.

    Chưa kịp động đũa, mẹ cô dâu – chị Hạnh – bước tới, cười gượng: “Chị ơi, chị dắt bé Na theo à? Nhà em tính cỗ vừa đủ, giờ thêm người sợ thiếu, mà đi hai người thì… hơi tốn kém, chị thông cảm về sớm giùm em nhé!”

    Tôi ngớ người, chưa kịp đáp thì chị ấy nói luôn: “Chứ để thiếu cỗ, khách lại bảo nhà em keo kiệt, chị nhỉ?” Cả bàn quay sang nhìn, tôi quê không biết chui vào đâu.

    Na ngây thơ kéo tay tôi: “Mẹ ơi, con đói, mình ăn đi!” Tôi cười méo mó, ôm con đứng dậy: “Thôi, chị hiểu rồi, mẹ con chị về đây.” Chị Hạnh còn đưa cái phong bì rỗng, bảo:

    “Chị cầm lấy cho vui, lần sau tính kỹ hơn nhé!” Tôi không nhận, dắt Na ra xe, lòng vừa tức vừa buồn. Trên đường về, Na hỏi: “Sao mình không ăn hả mẹ?” Tôi chỉ biết xoa đầu con: “Tại cô dâu sợ mẹ con mình ăn hết phần, con ạ!

    Về nhà, tôi kể chuyện với chồng, anh phì cười: “Đám cưới gì mà tính từng miếng ăn thế!”

    Từ đó, tôi rút kinh nghiệm, đi đâu cũng hỏi trước: “Có cho trẻ con đi cùng không?” chứ không lại mang cái mặt dày về như lần ấy.

  • Được đền bù đất 1 tỷ 8, tôi ôm 1 tỷ 750 ngồi xe 5 tiếng lên thành phố định cho con mua nhà, lên đến nơi các con nhiệt tình hỏi han nhưng

    Được đền bù đất 1 tỷ 8, tôi ôm 1 tỷ 750 ngồi xe 5 tiếng lên thành phố định cho con mua nhà, lên đến nơi các con nhiệt tình hỏi han nhưng

    Bất cứ người làm cha mẹ nào cũng muốn dành những điều tốt đẹp nhất cho con của mình.

    Ông Sáu, năm nay 60 tuổi, cùng vợ là bà Thắm sống ở một vùng quê nghèo thuộc tỉnh Nam Định, quanh năm gắn bó với đồng ruộng. Con trai duy nhất của họ, Tuấn, đã tốt nghiệp đại học ở Hà Nội và ở lại thành phố lập nghiệp. Anh kết hôn với Hương, một đồng nghiệp cùng công ty.

    Vợ chồng ông Sáu luôn đau đáu hướng về đứa con trai độc nhất. Ông bà chỉ mong Tuấn sớm quay về quê hương, ở gần cha mẹ khi tuổi già ập đến. Nhưng thực tế cuộc sống nơi phố thị cuốn hút Tuấn lại quá mạnh mẽ. Vợ chồng ông Sáu dần chấp nhận việc con trai sẽ an cư lạc nghiệp ở chốn phồn hoa.

    Năm Tuấn kết hôn, vợ chồng ông Sáu hiểu rằng các con rất muốn có một căn nhà riêng ở thành phố. Đây là ước muốn chính đáng, nhưng lại là gánh nặng khổng lồ đối với hai ông bà. Bao năm nay, vợ chồng ông Sáu sống vô cùng tằn tiện, chắt chiu từng đồng từ hạt lúa, củ khoai, nhưng kinh tế gia đình vẫn eo hẹp. Tất cả tiền bạc đều đã dồn vào việc học hành cho con trai. Làm nông không dư dả, ông bà chẳng có đủ tiền để giúp con mua nhà.

    Cũng vì chuyện này, tình cảm của con dâu, Hương, đối với bố mẹ chồng dần trở nên lạnh nhạt. Cô thường xuyên bóng gió nhắc đi nhắc lại về việc thiếu một chỗ ở ổn định.

    Vợ chồng ông Sáu luôn tự trách mình kém cỏi, không kiếm được nhiều tiền để con dâu phải coi thường. Mãi đến khi cháu nội đầu lòng ra đời, quan hệ gia đình mới dịu đi một chút.

    Một hôm, Tuấn gọi điện về, giọng vừa mừng rỡ vừa lo lắng, báo tin vợ đang mang thai lần thứ hai. Đồng thời, Tuấn cũng bày tỏ ý muốn mua một chiếc ô tô cũ để tiện đi lại, đặc biệt là khi đưa cả gia đình về quê thăm ông bà sẽ dễ dàng hơn.

    Câu nói của con trai chạm đến trái tim người cha. Ông Sáu nghĩ, làm cha làm mẹ, dù khó khăn đến mấy cũng phải hỗ trợ con một chút. Vừa may, gia đình ông có một mảnh đất nhỏ nằm trong diện quy hoạch và vừa được đền bù. Ông bà Sáu quyết định rút 200 triệu đồng (tương đương 6 vạn NDT trong câu chuyện gốc) từ khoản tiền đền bù đó để đưa cho con. Nhờ số tiền này, Tuấn và Hương đã mua được một chiếc xe trị giá khoảng 341 triệu đồng.

    Từ khi có chiếc xe, thái độ của Hương thay đổi rõ rệt. Mỗi lần ông bà Sáu lên thăm, con dâu trở nên ân cần, chu đáo hơn hẳn. Chính sự thay đổi này càng khiến ông bà quyết tâm phải giúp đỡ con trai nhiều hơn.

    Nghĩ đến cảnh con trai mình giờ đây sắp có hai đứa con mà vẫn chưa có chỗ ở ổn định, ông bà Sáu bàn bạc với nhau về số tiền đền bù đất còn lại. Tổng cộng, ông bà nhận được khoảng 2 tỷ đồng. Sau khi trích 200 triệu cho xe ô tô, số tiền còn lại khoảng 1,8 tỷ đồng. Với giá nhà đất đang leo thang ở thành phố, ông bà quyết định đưa hết phần tiền còn lại cho con để gom góp mua nhà.

    Đây là toàn bộ số tiền dưỡng già, là mồ hôi nước mắt cả đời của vợ chồng ông Sáu. Nhưng vì con, ông bà sẵn lòng chi ra hết. Ông Sáu tính rằng sau này hai vợ chồng sẽ đi làm thêm những việc lặt vặt đơn giản và nương tựa vào con cái.

    Thật ra, Tuấn chưa từng mở lời nhắc đến chuyện mua nhà lần nào, mà chính ông bà Sáu đã chủ động đề xuất. Tuấn dự định mua một căn hộ 102m2, tổng trị giá khoảng 3,7 tỷ đồng. Ông Sáu tin rằng số tiền 1,8 tỷ đồng này, cùng với tiền tiết kiệm của vợ chồng Tuấn, sẽ đủ để đặt cọc và trả một phần lớn tiền nhà. Vợ chồng ông cũng tính sẽ cố gắng làm lụng thêm vài năm nữa để giúp con giảm bớt áp lực nợ nần.

    Hôm đó, ông Sáu khăn gói, cầm bọc tiền buộc kỹ, mất trọn 5 tiếng đi xe khách từ quê lên Hà Nội. Khi vừa đến trước cửa căn hộ thuê của con trai, ông chưa kịp gõ cửa thì vô tình nghe thấy tiếng Hương nói vọng ra từ bên trong:

    “Anh phải nói chuyện rõ ràng với bố mẹ đi. Dù bố mẹ cho tiền mua nhà, nhưng em không đồng ý sống chung với họ đâu. Anh là con trai, lẽ dĩ nhiên bố mẹ anh phải bỏ tiền mua nhà cho anh. Căn nhà này chẳng qua là bố mẹ đang trả nợ chúng ta, trả lại những năm qua chúng ta sống khổ cực, thiếu thốn vì không có nhà mà còn bị mọi người chê cười.”

    Hương ngừng lại một lát, rồi nói tiếp với giọng đầy tự hào: “Mà nói về công lao lớn nhất thì phải nhắc đến mẹ của em. Mẹ đã lên đây chăm cháu, lo cho gia đình mình suốt thời gian qua đấy, chứ không phải ai khác!”

    Thực lòng, khi chuẩn bị số tiền này, vợ chồng ông Sáu chưa bao giờ có suy nghĩ sẽ lên ở chung với con. Họ chỉ mong các con thấu hiểu được sự cố gắng vun vén, hi sinh này mà sống hiếu thảo, biết ơn.

    Nhưng có vẻ như ông Sáu đã nghĩ quá nhiều rồi. Con dâu ông chỉ nghĩ rằng ông bà đang “trả nợ” một căn nhà, chứ không hề có ý muốn chăm sóc bố mẹ chồng. Sự thật đau lòng này khiến Ông Sáu vừa tới ngưỡng cửa đã đứng “chết sững”, như thể một luồng điện lạnh chạy dọc sống lưng.

    Quá đau đớn và thất vọng, ông Sáu lặng lẽ quay lưng, ôm chặt bọc tiền chứa cả tuổi già của mình, trở về quê ngay lập tức. Ông hiểu rằng, tuổi già của vợ chồng ông, tốt hơn hết là vẫn phải tự dựa vào chính bản thân mình. Nước mắt ông chảy ngược vào trong, thấm đẫm chiếc áo sờn vai.

    Cái túi vải cũ mà ông nội tôi để lại trước lúc mất, sau này tôi mới hiểu, nó không chỉ chứa đựng những món đồ kỷ niệm, mà còn là cả một đời hy sinh thầm lặng, không lời của cha mẹ.

  • Đi làm xa mỗi tháng gửi về cho mẹ 20 triệu nuôi vợ mới si::nh, lúc về ch::ết điếng khi thấy vợ bế con ngồi ăn mì tôm

    Đi làm xa mỗi tháng gửi về cho mẹ 20 triệu nuôi vợ mới si::nh, lúc về ch::ết điếng khi thấy vợ bế con ngồi ăn mì tôm

    Tôi tên là Tuấn, kỹ sư xây dựng. Vì muốn vợ con có cuộc sống sung túc nên khi vợ tôi bầu tháng thứ 7 tôi đã chấp nhận đi làm giám sát công trình ở tận biên giới, cách nhà hơn 400km để có thêm thu nhập lo cho con sau này.

    Lương tháng tôi được 35 triệu. Tôi giữ lại 5 triệu chi tiêu, còn lại gửi về cho mẹ. Ngày vợ sinh con tôi cũng chỉ tranh thủ về được có 2 ngày rồi lại đi luôn và nhờ mẹ chăm vợ con hộ. Tôi dặn mẹ kỹ lưỡng: “Mẹ ơi, Hiền mới sinh, sức khỏe yếu. Mỗi tháng con gửi mẹ 20 triệu để mẹ lo cơm nước, bồi dưỡng cho hai mẹ con cô ấy. Còn 10 triệu mẹ cứ giữ lấy mà tiêu hoặc tiết kiệm hộ con.”

    Mẹ tôi gật đầu lia lịa: “Mày cứ yên tâm. Con dâu là con con, cháu nội là cháu tao. Tao không chăm thì ai chăm? Cứ để đấy mẹ lo cho nó béo trắng ra.”. Tôi yên tâm lên đường. Nhưng tôi đã quá ngây thơ.

    Nửa tháng đầu tiên, mọi chuyện có vẻ ổn. Nhưng sau đó tôi bắt đầu thấy lạ. Mỗi lần tôi gọi video về buổi tối để nhìn mặt con, Hiền đều không nghe máy. Cô ấy tắt đi và chỉ nhắn lại những dòng tin ngắn ngủi, lạnh lùng: “Con ngủ rồi, nghe máy con thức.”…”Em mệt, em ngủ trước đây.”…”Mạng lag lắm anh ạ.”…

    Tôi gọi cho mẹ, bà Thoa than thở: “Ôi dào, vợ mày nó sướng quá hóa rồ đấy con ạ. Cơm bưng nước rót tận miệng mà mặt lúc nào cũng sưng sỉa. Nó bảo mày đi xa, nó buồn, nó chẳng thiết nói chuyện.”

    Nghe mẹ nói, cộng với thái độ lạnh nhạt của vợ, tôi bắt đầu sinh nghi. Đàn bà xa chồng, lại mới sinh tâm lý bất ổn, hay là cô ấy có ai khác? Hay cô ấy giấu tôi làm chuyện gì mờ ám, lấy tiền của tôi đưa cho nhà ngoại?

    Cơn ghen và sự nghi ngờ như ngọn lửa âm ỉ đốt cháy tâm can tôi. Ngày thứ Sáu, tôi quyết định không báo trước, bắt xe khách chuyến đêm để về nhà “đánh úp”, xem thực hư vợ tôi đang làm cái gì.

    11 giờ trưa, tôi về đến đầu ngõ. Căn nhà 2 tầng khang trang im lìm. Tôi rón rén mở cổng bằng chìa khóa riêng. Bước vào sân, tôi nghe thấy tiếng tivi mở lớn và tiếng cười nói rôm rả trong phòng khách.
    Qua khe cửa sổ, tôi thấy mẹ tôi và cô em gái (đã lấy chồng nhưng hay về ăn chực) đang ngồi ăn cơm. Trên bàn là mâm cơm thịnh soạn: Gà luộc, canh măng, giò lụa…

    Tôi thở phào. Mẹ ăn uống thế này thì chắc vợ con tôi cũng được chăm sóc tốt. Chắc Hiền đang ngủ hoặc ăn trong phòng. Tôi định đẩy cửa bước vào tạo bất ngờ, nhưng một ý nghĩ thoáng qua khiến tôi dừng lại. Tôi muốn xem vợ tôi đang làm gì khi không có tôi.

    Tôi vòng ra phía sau nhà, nơi có gian bếp cũ và phòng ngủ nhỏ mà mẹ tôi bảo dọn cho Hiền ở cữ “cho kín gió”. Và cảnh tượng trước mắt khiến tim tôi ngừng đập.

    Cánh cửa bếp khép hờ. Trong ánh sáng lờ mờ, ẩm thấp, Hiền đang ngồi co ro trên chiếc chõng tre cũ kỹ. Cô ấy gầy rộc đi, hai má hóp lại, da xanh như tàu lá chuối. Trên tay Hiền đang bế đứa con gái đỏ hỏn của tôi, con bé đang ngằn ngặt khóc.

    Còn Hiền… cô ấy đang ăn trưa. Không có gà luộc. Không có canh măng. Trước mặt cô ấy là một bát mì tôm úp vội, nước đã nguội ngắt, sợi mì trương phềnh lên. Không có lấy một miếng thịt, không một cọng rau. Hiền vừa dỗ con, vừa và vội miếng mì. Nước mắt cô ấy rơi lã chã xuống bát mì, mặn chát.

    Vừa ăn, cô ấy vừa nấc nghẹn: “Nín đi con… mẹ xin lỗi… mẹ đói quá… mẹ ăn miếng rồi mẹ cho con ti…”. Tôi đứng chết lặng. Máu trong người tôi sôi lên sùng sục, chạy rần rật từ chân lên đỉnh đầu. “20 triệu một tháng”! Tôi gửi 20 triệu để vợ tôi ăn mì tôm trương phềnh thế này sao? Không thể kìm nén thêm một giây nào nữa.

    RẦM!!!

    Tôi tung chân đạp phăng cánh cửa gỗ mục nát. Cánh cửa đập vào tường tạo nên tiếng động kinh hoàng. Hiền giật bắn mình, bát mì trên tay rơi xuống đất vỡ tan tành. Cô ấy ôm chặt con, co rúm người lại vì sợ hãi. Khi nhìn thấy tôi, đôi mắt cô ấy mở to, hoảng loạn tột độ, rồi òa khóc nức nở: “Anh… anh về…?”

    Ở nhà trên, mẹ tôi và cô em gái nghe tiếng động lớn cũng hốt hoảng chạy xuống. Thấy tôi đứng sừng sững giữa nhà với đôi mắt đỏ ngầu, mẹ tôi lắp bắp, mặt cắt không còn giọt máu: “Ơ… thằng Tuấn… mày về bao giờ thế con? Sao không báo mẹ?”

    Tôi không trả lời mẹ. Tôi bước tới, nhìn bát mì vương vãi dưới đất, rồi nhìn người vợ tiều tụy như xác ve. Tôi quay sang nhìn mẹ tôi, giọng gầm lên như thú dữ: “20 triệu một tháng của tôi đâu? Hả???”

    Mẹ tôi run rẩy: “Thì… thì mẹ lo cơm nước… Nhưng vợ mày nó bảo nó ngán cơm, nó thích ăn mì tôm cho lạ miệng… Mẹ chiều nó…”. “Mẹ nói thế mà nghe được à!” – Tôi hét lên, chỉ tay vào mâm cơm thừa đầy ắp thịt cá ở nhà trên. – “Mẹ ăn gà, ăn giò, còn vợ con mới đẻ thì mẹ cho ăn mì tôm không người lái? Mẹ làm thế có được không? Con gái mẹ đi lấy chồng người ta cho ăn như thế mẹ có chịu được không”?

    Hiền lúc này mới dám lên tiếng, giọng yếu ớt: “Anh ơi… không phải em thích ăn mì đâu. Mẹ bảo tiền anh gửi về phải để dành xây lại cái cổng và mua xe cho cô Út. Mẹ bảo em ăn bám, đẻ con gái thì chỉ được ăn thế thôi. Mẹ cấm em nghe điện thoại của anh, mẹ bảo nếu mách lẻo mẹ sẽ đuổi hai mẹ con ra đường…”

    Tôi nghe mà tim như bị ai bóp nát. Hóa ra sự im lặng của vợ tôi là sự cam chịu của một người phụ nữ bị cô lập, bị bạo hành tinh thần ngay trong chính ngôi nhà của chồng.

    Mẹ tôi bắt đầu lu loa: “Ối giời ơi, con tôi đi làm xa về nó nghe lời vợ nó chửi mẹ! Tao nuôi mày khôn lớn để giờ mày đội vợ lên đầu à? Tiền mày tao giữ hộ chứ tao ăn hết của mày à?”

    Tôi không tranh cãi nữa. Sự hiếu thảo mù quáng của tôi đã hại chết vợ con tôi rồi. Tôi lao vào tủ quần áo, vơ vội mấy bộ đồ của Hiền và tã lót của con nhét vào ba lô. Tôi bế thốc vợ và con lên. Hiền sợ hãi:
    – “Anh ơi… đi đâu thế anh?”

    Tôi nhìn thẳng vào mặt mẹ tôi và cô em gái đang đứng trơ mắt ếch: “Mẹ, con là con trai mẹ, con có nghĩa vụ phụng dưỡng mẹ. Nhưng mẹ đã đối xử với vợ con con như kẻ thù, thì đừng trách con bất nghĩa. Từ nay, mỗi tháng con sẽ chỉ gửi đúng 3 triệu tiền ăn cho mẹ như luật định. Còn lại mọi thứ ở đây mẹ tự lo đi.”

    – “Mày… mày dám bỏ nhà đi à? Mày bước ra khỏi cửa là tao từ mặt!” – Mẹ tôi gào lên.

    Tôi quay lưng, giọng lạnh băng: “Con không cần mẹ từ mặt. Chính mẹ đã đẩy con đi.”

    Tôi bế vợ con ra thẳng ngõ, vẫy một chiếc taxi. Trên xe, Hiền vẫn khóc, nhưng lần này cô ấy dựa đầu vào vai tôi. Tôi ôm chặt hai mẹ con, nước mắt tôi cũng rơi xuống. “Anh xin lỗi. Anh sai rồi. Từ nay, anh sẽ không để ai làm khổ mẹ con em nữa. Dù có phải đi thuê nhà, ăn cháo, anh cũng sẽ tự tay chăm sóc em.”

    Sau ngày hôm đó, tôi xin chuyển công tác về gần nhà, thuê một căn nhà nhỏ. Mỗi lần nhìn vợ tôi hồng hào trở lại, con tôi bụ bẫm, tôi biết mình đã làm đúng. Cú đạp cửa ngày hôm ấy không chỉ phá vỡ cánh cửa gỗ mục, mà còn phá vỡ xiềng xích của những hủ tục và sự nhu nhược trong tôi.

  • Cô dâu ch:ửa trước mẹ chồng không cho vào cửa trước mà bắt tr:èo tường vào nhà

    Cô dâu ch:ửa trước mẹ chồng không cho vào cửa trước mà bắt tr:èo tường vào nhà

    Ngày cưới của Hạnh, cả làng ai cũng xì xào. Người thì bảo “Con bé may, bụng to mà vẫn được cưới”, người lại thì thầm “Nhà trai chỉ làm cho có lệ thôi”. Hạnh im lặng, tay khẽ đặt lên bụng mình — nơi đứa con nhỏ đang lớn lên từng ngày. Cô chỉ mong mọi chuyện qua đi êm đẹp, miễn sao đứa con có cha, có danh phận.

    Sáng hôm ấy, đoàn nhà trai rước dâu đến. Tiếng kèn, tiếng trống vang rộn rã cả ngõ.

    Hạnh nắm chặt tay bố — ông Lâm, người đàn ông đã tóc bạc nửa đầu vì thương con — rồi bước ra. Nhưng khi vừa tới cổng nhà trai, mẹ chồng tương lai – bà Hà – đứng chắn ngay trước cửa, mặt lạnh tanh.1

    “Dừng lại! Con dâu chửa trước thì không được vào cửa chính. Nhà tôi xưa nay giữ gia phong, không thể để chuyện xấu hổ này diễn ra trước bàn thờ tổ tiên. Muốn vào thì trèo qua tường bên hông kia!”
    Cả đoàn rước dâu chết lặng.

    Hạnh sững sờ, tưởng như mình nghe nhầm.

    Cô quay sang nhìn chồng – người mà cô đã tin tưởng, người từng hứa “Dù có chuyện gì, anh cũng sẽ bảo vệ em”.

    Nhưng anh cúi gằm mặt, im lặng. Không một lời phản đối. Không một bước tiến lại gần.

    Bà Hà vẫn tiếp tục nói, giọng đầy khinh miệt: “Nhà các người nghèo, lại còn để con gái mang bầu trước cưới, đúng là không biết dạy con. Chẳng trách phải cưới gấp, không thì xấu hổ với thiên hạ.”

    Ông Lâm nắm chặt tay, những đường gân trên mu bàn tay nổi lên. Ông cố kìm nén, quay sang con gái: “Thôi con, chịu nhục một chút, rồi mọi chuyện sẽ qua…”

    Nhưng khi nhìn thấy đứa con gái run rẩy, một tay ôm bụng, một tay vịn chiếc thang tre chòng chành được đặt vào bức tường cao chừng hơn 2m, đôi mắt rớm lệ mà vẫn gượng cười, trái tim người cha như vỡ vụn…

    Ông bước lên, giữ chặt tay con gái lại, giọng khàn đặc mà dõng dạc: “Con gái tôi không việc gì phải trèo tường! Nếu nhà bà không đón dâu đàng hoàng bằng cửa chính, thì coi như không có đám cưới nào hết! Nhà tôi nghèo thật, nhưng không nghèo nhân cách. Con gái tôi chẳng làm gì sai để phải bò qua tường như kẻ trộm! Trong chuyện này không phải chỉ con tôi là người có lỗi, không có con trai bà thì làm sao con gái tôi chửa trước được? Còn bà, bà có thể giữ ‘gia phong’ của nhà bà, nhưng xin lỗi — tôi giữ danh dự cho con tôi!”.

    Không khí im phăng phắc. Bà Hà đứng chết lặng, mặt đỏ bừng quát lớn: “Ối dào, bụng ễnh ra lại còn làm cao à? Mà đã chắc là con cháu nhà này chưa, cái loại con gái dễ dãi như thế thì tốt đẹp gì. Nhà tôi rước cho là may lắm rồi, giờ thích mang tiếng là chửa hoang thì cứ việc…..”..

    Chú rể chỉ cúi đầu, không dám nhìn ai.

    Ông Lâm nắm tay con gái quay người bước đi, giọng trầm mà chắc: “Thôi con, về. Nhà mình còn, cha mẹ còn — chẳng cần phải gả vào nhà không có tình người như thế.”

    Đoàn nhà gái lặng lẽ quay xe. Phía sau, những lời xì xào im bặt, chỉ còn tiếng khóc nức nở của Hạnh và tiếng bước chân kiên định của người cha dắt con rời khỏi nơi đáng lẽ phải là khởi đầu của hạnh phúc.

    Ba tháng sau, Hạnh sinh con. Bố cô ở bên chăm sóc từng miếng ăn, giấc ngủ. Ngày đầy tháng, ông bế cháu ra hiên, vuốt tóc con gái rồi nói: “Đừng sợ mất ai, con à. Người đàn ông không đủ bản lĩnh để bảo vệ vợ mình — thì dù có cưới, cũng chẳng còn là bến đỗ.”

    Bỗng đâu có tiếng xe cộ rồi tiếng người ngoài cổng, ông Lâm vội vàng ra xem là ai thì hóa ra là thông gia hụt. Bà ta mặt vẫn giữ thái độ kẻ trên, vênh lên:

    “Ông ra đây rồi thì tôi khỏi phải vào nhà, tôi nghe nói con Hạnh sinh con trai rồi, giống thằng Hoàng nhà tôi lắm. Tôi cho nhà ông cơ hội cuối, đi xét nghiệm ADN nếu đúng là cháu nhà tôi thì tôi đón về”.

    “Thôi khỏi, bà có mang cả tráp vàng đến thì nhà tôi cũng chẳng cho đón con đón cháu tôi đâu. Tôi nghe nói thằng con bà mới bị tai nạn hôm qua giờ đang thập tử nhất sinh ở viện hả? Quả báo đấy, bà về cầu trời khấn phật cho con bà giữ được mạng đi, chứ không bao giờ bà có cơ hội đón con đón cháu tôi về nữa đâu”.

    Nói rồi ông Lâm đóng chặt cửa đi vào trong nhà, ông chẳng nói gì với con gái cả, coi như không có chuyện gì xảy ra hết….

  • Đại gia của xóm thuê nguyên một kho lạnh để cất 5 tấn cá khô mua ngoài biển, ông dặn người nhà trông kỹ càng không cho ai vào suốt 3 năm trời

    Đại gia của xóm thuê nguyên một kho lạnh để cất 5 tấn cá khô mua ngoài biển, ông dặn người nhà trông kỹ càng không cho ai vào suốt 3 năm trời

    Đại gia Phan Văn Lược – giàu nhất xóm Trên – nổi tiếng là người kín tiếng và có phần lập dị. Ba năm trước, sau chuyến đi biển dài ngày, ông bất ngờ mua về trọn 5 tấn cá khô rồi thuê người xây hẳn một kho lạnh riêng, gắn ba lớp khóa, tường đổ bê tông dày. Ông dặn người nhà:

    “Ba năm! Tuyệt đối không ai được mở. Nếu tôi không cho phép, đừng động vào… kẻo mang họa.”

    Cả xóm đồn ầm lên: hoặc ông trữ hàng đầu cơ, hoặc có vàng bạc giấu trong đó. Nhưng người nhà thì chưa ai dám hé môi.

    Mãi đến tháng 9 năm nay, ông Lược phát hiện ung thư gan giai đoạn cuối. Cả họ bấn loạn, vợ con khóc ngất. Trong lúc đang chuẩn bị đưa ông đi viện tuyến trên, một người bạn lâu năm dẫn một ông thầy cúng có tiếng ở Nam Định đến, bảo rằng phải xem “điềm âm” trước.

    Vừa bước vào nhà, chưa kịp cởi áo, thầy cúng đã xanh mặt, tay run run:

    “Đại họa treo lơ lửng trên đầu nhà này rồi… Trong sân đang chôn oán khí. Mà cái oán khí ấy nằm ở nơi các người vẫn tưởng là tài sản.”

    Vợ ông Lược thảng thốt hỏi phải làm sao. Thầy chỉ tay thẳng ra cửa sau:

    “Cái kho lạnh. Mở ra ngay lập tức, nếu không… một người đi thì bốn người còn lại cũng chẳng yên thân.”

    Mọi người tái mét. Ngay cả ông Lược, đang yếu lắm, cũng mở mắt. Ông lắp bắp:

    “Không được mở… chưa đủ ba năm…”

    Nhưng thầy lắc đầu:

    “Không mở hôm nay thì không còn cơ hội nữa.”

    Gia đình thở gấp. Hai người con trai run rẩy lấy chìa khóa, bước đến trước kho lạnh. Ổ khóa đã hoen rỉ vì mấy năm không đụng đến. Vừa mở cánh cửa, một luồng khí lạnh buốt phả ra, nhưng cái mùi tỏa ra mới khiến mọi người chết đứng — không phải mùi cá, mà là mùi tanh của máu pha lẫn hôi thối như xác chết.

    Người con dọi đèn pin vào.

    Và rồi… hét thất thanh.

    Trong kho, 5 tấn cá vẫn xếp đó, nhưng ở giữa chất cá là một hàng dài hơn chục cái bao tải màu đen, được buộc dây thừng đỏ, trên mỗi bao vẽ bùa lạ ngoằn ngoèo. Một bao đã rách ở đáy, để lộ… một mảnh xương người.

    Mọi người tái mét, ngã nhào ra sau. Thầy cúng thở dài:

    “Tôi biết mà… đây không phải cá. Đây là vật trấn oán. Và ông chủ nhà… đã phạm vào điều đại kỵ.”

    Vợ ông Lược khóc thét:

    “Ông ấy trấn cái gì trong nhà tôi? Sao lại có… xương người?”

    Thầy chắp tay, giọng trầm xuống:

    “Để trừ vận hạn cho gia đình, ông ấy đã nghe lời một thầy xấu:
    Mua cá từ ngoài biển về để che mắt, rồi trong đêm đem chôn hài cốt của những người chết đường chết chợ vào giữa đống cá – gọi là ‘mượn mạng đổi vận’.
    Nhưng người chết oán quá nặng… không những không giúp được, mà còn quay lại ‘xin mạng’ của chính gia đình này.”

    Cả nhà đồng loạt quay sang nhìn ông Lược. Ông khóc, giọng đứt quãng:

    “Tôi chỉ… muốn giữ của cho con… đã cảnh báo là không được mở…”

    Thầy cúng nghiêm giọng:

    “Không mở thì ông đi trước. Nhưng mở rồi… trong ba ngày nữa, phải giải toàn bộ số xương này, nếu không oán hồn không rời khỏi được, sẽ kéo theo cả nhà xuống theo.”

    Cả xóm nghe tin kéo đến xem, ai cũng sợ xanh mặt.

    Nhưng twist lớn nhất nằm ở chỗ…
    Khi thầy và người nhà chuyển từng bao xương ra, đến cái bao cuối cùng, một người thợ lỡ tay làm rơi. Từ bên trong rơi ra một chiếc vòng bạc, khắc tên một đứa bé… chính là tên con trai út của ông Lược, mất tích cách đây 11 năm khi gia đình lên thành phố, chưa từng tìm được thi thể.

    Vợ ông Lược khuỵu xuống, úp mặt khóc nghẹn:

    “Ông… đã giấu tôi những gì…?”

    Ông Lược run bần bật, môi mấp máy:

    “Tôi… tôi chỉ muốn… giữ nó lại bên mình…”

    Và ngay khi câu nói vừa dứt, cả kho lạnh chợt tắt điện, một cái bóng nhỏ xíu lướt vụt qua cửa, và tiếng trẻ con vọng lên:

    “Bố… đem con đi đâu vậy…?”

  • Đi ăn đám cưới bạn, cả nhóm thống nhất mừng cưới theo mức chung là 500.000/ người nhưng sau khi nhìn thấy mâm cỗ nhà gái chuẩn bị vài người vội đổi phong bì

    Hôm đó, nhóm 6 người chúng tôi đi ăn cưới con bạn học cũ — con Thảo, đứa từng nghèo nhất lớp.
    Từ hồi học xong, nó ít liên lạc, ai cũng tưởng đời nó lận đận, nên khi nghe tin cưới, cả nhóm bàn nhau:

    “Mừng cho nó 500k/người là hợp lý, vừa có tâm vừa không phô trương.”

    Thế mà vừa đến nơi, nhìn mâm cỗ nhà gái, đứa nào cũng trố mắt.
    Chỉ có vài món đơn giản: gà luộc, đậu sốt, dưa góp, canh mướp, tráng miệng thì… đúng 1 quả chuối.

    Thằng Tuấn bĩu môi:

    “Trời ơi, cưới gì mà như giỗ thế này, 500k phí quá!”

    Cả nhóm ngồi xì xầm, cuối cùng mấy đứa rủ nhau ra xe “đổi phong bì” — lén rút bớt tiền còn 300k, bảo nhau:

    “Chắc nó chẳng kiểm phong bì đâu, miễn có mặt là quý rồi.”

    Cả buổi tiệc, Thảo vẫn tươi cười, đi từng bàn rót rượu, cảm ơn rối rít.
    Ai ngờ…

    tối hôm đó, cả nhóm đều nhận được tin nhắn chung trong group Messenger cũ — do chính Thảo gửi.

    “Cảm ơn các bạn đã đến dự cưới mình. Mâm cỗ hôm nay có thể đơn sơ, vì số tiền mình dành để làm tiệc, mình dùng trả viện phí cho mẹ — bà vừa qua cơn nguy kịch sau đợt chạy thận tuần trước. Mình chỉ sợ không kịp chờ ngày cưới.


    Nhưng nhìn thấy các bạn, mình vui lắm, thật lòng cảm ơn.”

    Không ai nói thêm được lời nào.
    Thằng Tuấn lặng lẽ gỡ phong bì rỗng ra khỏi túi, còn con My — đứa hăng nhất vụ “đổi tiền” — nghẹn giọng:

    “Lẽ ra… mình nên mừng nhiều hơn mới phải.”

    Ngày hôm sau, cả nhóm nhắn lại xin lỗi Thảo, nhưng cô chỉ trả lời vỏn vẹn một câu:

    “Không sao đâu, mình vui vì các bạn vẫn đến. Tiền thì không quan trọng… tình bạn mới là thứ mình quý.”

    Từ hôm đó, không ai trong nhóm còn dám chê bai đám cưới nào nữa.
    Vì đôi khi, một mâm cỗ giản dị lại chứa cả tấm lòng và nước mắt của người ta.

  • Năm 1995, tại bang Texas (Mỹ), một gia đình người Việt gồm bảy thành viên bất ngờ biến mất khỏi ngôi nhà của họ, để lại duy nhất một mảnh giấy vỏn vẹn dòng chữ: “Đi thăm người thân vài ngày.

    Năm 1995, tại bang Texas (Mỹ), một gia đình người Việt gồm bảy thành viên bất ngờ biến mất khỏi ngôi nhà của họ, để lại duy nhất một mảnh giấy vỏn vẹn dòng chữ: “Đi thăm người thân vài ngày.

    Năm 1995, một gia đình người Việt gồm bảy thành viên sống ở ngoại ô Houston, Texas, bỗng biến mất chỉ sau một đêm. Họ để lại duy nhất một mảnh giấy viết vội:

    “Đi thăm người thân vài ngày.” Nhưng rồi không một ai quay về, cũng không ai nghe thấy tin tức gì. Căn nhà nhỏ, chiếc xe hơi cũ trong gara, và những bữa cơm dở dang trên bàn — tất cả đứng im như thể thời gian bị chặn lại. Suốt 10 năm, cộng đồng Việt kiều quanh đó không ngừng bàn tán. Cho đến một ngày, một sự tình cờ đã làm bật ra bí mật rợn người bị che giấu.

    Gia đình ông Bảy và bà Lan định cư ở Mỹ từ cuối thập niên 80. Họ có bốn người con: hai trai, hai gái, cùng bà cụ thân sinh của ông Bảy từ Việt Nam sang đoàn tụ. Ngôi nhà nhỏ ở khu ngoại ô vốn lúc nào cũng rộn ràng tiếng nói cười, mùi cơm cá kho, canh chua. Hàng xóm người Mỹ thường bảo:

    “Ngôi nhà ấy lúc nào cũng tỏa ra mùi thơm dễ chịu.”

    Ông Bảy làm công nhân hãng sửa xe, bà Lan phụ bếp cho một tiệm phở. Cuộc sống không dư dả, nhưng ổn định và đầy yêu thương. Các con đi học về thường ngồi quanh bàn ăn kể chuyện trường lớp, xen lẫn tiếng cằn nhằn của bà cụ khi thấy bọn nhỏ mải chơi hơn học.

    Mùa hè năm 1995, cả gia đình còn tham gia lễ hội Tết Trung Thu do cộng đồng người Việt tổ chức. Ai cũng thấy họ bình thường: nụ cười của bà Lan, dáng ông Bảy lúi húi phụ dựng lồng đèn, lũ trẻ chạy nhảy tung tăng. Không dấu hiệu nào báo trước biến cố.

    Rồi đến một buổi sáng, người hàng xóm tên Sarah bước sang, định nhờ ông Bảy giúp sửa cái bếp gas. Bà gõ cửa mãi không ai trả lời. Cửa không khóa, bà bước vào thì thấy căn nhà im lìm. Bàn ăn còn nguyên chén đũa, nồi cá kho chưa kịp dọn. Trên bàn gỗ nhỏ cạnh cửa có một mảnh giấy viết bằng tiếng Việt:

    “Đi thăm người thân vài ngày.” Xe hơi vẫn nằm trong gara, vali quần áo vẫn ở tủ. Cảnh sát được gọi tới, nhưng họ cho rằng đây chỉ là một chuyến đi ngắn.

    Ngày nối ngày, rồi vài tháng trôi qua. Gia đình ấy không trở lại. Bưu điện bắt đầu chất đầy thư, hóa đơn. Những lời đồn đại lan khắp cộng đồng: nào là họ trốn nợ, nào là bị bắt cóc, thậm chí có người thì thào rằng ông Bảy từng dính dáng chuyện làm ăn mờ ám. Nhưng không bằng chứng, không dấu vết. Căn nhà dần trở thành “ngôi nhà ma” trong mắt người dân quanh vùng.

    Thời gian trôi qua, căn nhà xuống cấp. Cỏ mọc cao ngập cả sân. Đôi khi có người thấy ánh đèn chập chờn bên trong, dù cửa luôn khóa. Trẻ con trong khu phố thách nhau vào sân sau, rồi hét ầm vì nghe như có tiếng bước chân trên gác.

    Năm 2005, một nhóm thanh niên gốc Việt trong cộng đồng quyết định tìm hiểu. Họ muốn chứng minh câu chuyện “ma quái” chỉ là lời đồn. Một tối mùa hè, cả nhóm mang theo đèn pin, máy quay, lẻn vào căn nhà bỏ hoang.

    Bên trong, mọi thứ phủ bụi dày, nhưng kỳ lạ là không hề có dấu hiệu bị phá phách. Trên bàn vẫn còn khung ảnh gia đình, áo khoác treo gọn gàng trong tủ. Dường như cả bảy người chỉ vừa bước ra ngoài và không bao giờ quay lại. Một trong nhóm để ý đến tờ lịch treo tường dừng lại ở tháng 6/1995 — đúng thời điểm họ biến mất.

    Khi soi kỹ dưới gầm giường, họ phát hiện một hộp gỗ nhỏ. Trong hộp có vài lá thư viết tay bằng tiếng Việt, nét chữ run rẩy. Nội dung rời rạc, nhắc đến nỗi lo sợ bị “theo dõi”, và một đoạn mơ hồ:

    “Nếu có chuyện gì xảy ra, hãy tìm dưới gốc cây sau nhà.”

    Ngày hôm sau, cả nhóm quay lại đào thử phía sau vườn. Đúng như lời nhắn, dưới lớp đất ẩm, họ tìm thấy một chiếc hộp thiếc cũ. Bên trong không phải vàng bạc, mà là một cuốn sổ tay đã úa vàng. Trang đầu tiên viết: “Chúng ta không còn an toàn. Có người biết bí mật của gia đình.”

    Tin tức lan ra nhanh chóng, khiến cộng đồng xôn xao. Người ta bắt đầu đặt câu hỏi: Gia đình ấy thực sự đã đi thăm người thân, hay đã bỏ trốn khỏi một thứ gì khủng khiếp hơn?

    Cảnh sát được mời vào cuộc lần nữa, nhưng hồ sơ cũ đã quá lâu, manh mối mờ nhạt. Cuốn sổ tay chứa nhiều đoạn viết ngắt quãng, đôi khi như mật mã, đôi khi chỉ là những dòng cầu nguyện. Có trang nhắc đến “khoản nợ máu ở quê cũ”, có trang lại ghi “kẻ bám theo bóng tối”.

    Những cụ cao niên trong cộng đồng thì thầm rằng ông Bảy từng liên quan đến chuyện vượt biên năm 1979, và có thể đã dính vào một mối thù nào đó. Người khác lại bảo, có khả năng gia đình bị lừa sang một tiểu bang khác, rồi bị giữ làm lao động chui.

    Không câu trả lời nào chắc chắn. Nhưng điều rợn người nhất xảy ra vài tháng sau khi cuốn sổ được tìm thấy. Một người trong nhóm thanh niên kia kể rằng anh liên tục nhận được cuộc gọi lạ, đầu dây chỉ có tiếng thở dài. Ban đêm, có lúc anh thấy bóng dáng một phụ nữ mặc áo bà ba trắng đứng bên cửa sổ nhà mình, rồi biến mất.

    Căn nhà nơi gia đình ấy từng sống cuối cùng bị chính quyền niêm phong, sau đó phá bỏ để xây khu thương mại. Nhưng những ai từng đi ngang vẫn nói đôi khi nghe thấy tiếng trẻ con cười vang trong gió, hoặc mùi cá kho phảng phất.

    Câu chuyện khép lại mà không có hồi kết rõ ràng. Bảy con người biến mất không dấu vết, để lại một mảnh giấy ngắn ngủi và cuốn sổ tay u ám. Mười năm sau, bí mật hé lộ chỉ càng khiến mọi thứ thêm bí ẩn. Đời thường tưởng chừng yên ả, hóa ra vẫn có những góc tối mà chẳng ai dám chạm tới tận cùng.